(CMO) Ðược dự báo sẽ tiếp tục khó khăn trong đầu ra sản phẩm gỗ, do đó việc triển khai nhiều mô hình kết hợp dưới tán rừng để đa dạng sinh kế, tạo ra nhiều nguồn thu đang là hướng đi có thể giúp người dân trong lâm phần vượt qua khó khăn, yên tâm bám đất, giữ rừng.
Rừng đước, rừng tràm bao đời nay là chốn sinh nhai của hàng trăm ngàn người. Do đó, mọi biến động giá lâm sản tác động rất lớn đến đời sống người dân. Ngoài nguồn thu chính là cây rừng, đời sống người dân còn phụ thuộc nhiều vào nguồn tài nguyên thiên nhiên dưới tán rừng.
Cân đối và phù hợp
Trong khi cây tràm, cây đước giá thấp thì hiện nay giá cây keo lai cơ bản ổn định. Hiện tại, giá 1 ha keo lai dao động từ 160-180 triệu đồng, thậm chí những hộ chăm sóc tốt, đúng kỹ thuật có thể thu trên 200 triệu đồng.
Ông Trần Ngọc Thảo, Giám đốc Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp U Minh Hạ, nhận định, đầu tư khoảng 50 triệu đồng 1 ha trồng keo lai, sau 7 năm có thể thu về hơn 300 triệu đồng. Thời gian tới, công ty sẽ tiếp tục kết hợp với huyện, xã triển khai mô hình này đối với những khu vực bờ cao để phát triển keo gỗ lớn.
Ðể tạo đầu ra ổn định và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm gỗ, thời gian qua tỉnh đã mời gọi nhiều doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà máy. Ðã có nhiều nhà đầu tư đến làm việc, tìm hiểu nhưng đa phần đều có yêu cầu được thuê diện tích đất khá lớn, từ 500-1.000 ha. Ðây là vấn đề tỉnh khó có thể đáp ứng được, do đó dù có nhiều nhà đầu tư nhưng đến nay cũng chỉ dừng lại ở giai đoạn nghiên cứu.
Ða phần các sản phẩm gỗ được bán dưới dạng gỗ xẻ, sản phẩm chế biến sâu còn hạn chế. |
Chưa có nhà đầu tư đủ năng lực có thể đảm bảo đầu ra sản phẩm gỗ của tỉnh. Từ đó, ông Nguyễn Văn Quân, Phó giám đốc Sở NN&PTNT Cà Mau, khuyến cáo, dù cây keo lai có giá nhưng phải hết sức cân nhắc, không thể chuyển hết qua cây keo lai mà phải tính toán một tỷ lệ cân đối, phù hợp để tránh tình trạng cung vượt cầu, giá lại xuống thấp như cây tràm hiện nay. Song song với đó, tập trung tiến tới khai thác diện tích mặt liếp, mặt nước và cả du lịch dưới tán rừng để nâng hiệu quả kinh tế lâm nghiệp. Ðặc biệt, phải tiến tới liên doanh, liên kết chuỗi với các đơn vị khác từ trong cho đến ngoài tỉnh để tăng sức đầu tư, cũng như bao tiêu sản phẩm. “Chỉ có tích hợp nhiều giải pháp mới tăng giá trị thu nhập trên cùng diện tích và có sự hài hoà đồng bộ”, ông Quân nhận định.
Một nghịch lý đang diễn ra tại lâm phần rừng U Minh Hạ là người dân khó trong đầu ra, còn doanh nghiệp lại thiếu sản lượng để có thể ký hợp đồng với các đối tác lâu dài. Câu chuyện này đang diễn ra tại Công ty Cổ phần Ðầu tư Thuý Sơn Cà Mau. Là đơn vị được UBND tỉnh giao đất trồng rừng đạt chứng chỉ phát triển rừng bền vững FSC-FM. Ðây là doanh nghiệp tiên phong của tỉnh và là đơn vị đầu tiên đạt chứng chỉ này. Ðến nay, công ty đang chuyển đổi từ chứng chỉ FSC-FM mức độ 1 sang FSC-Group với khoảng 900 ha.
Tuy nhiên, đại diện Công ty Thuý Sơn chia sẻ, gỗ vẫn chủ yếu bán trong nước với sản phẩm chính nguyên liệu gỗ thô và gỗ xẻ. Riêng đối với sản phẩm viên nén, dù có nhà máy nhưng quy mô còn nhỏ, chưa thể đáp ứng nhu cầu thị trường quốc tế. Một số đối tác yêu cầu cung cấp sản phẩm viên nén gỗ với khối lượng lớn, thời gian hợp tác ít nhất phải từ 10 năm trở lên, mà năng lực của công ty trong giai đoạn này chưa thể đáp ứng được về sản lượng và đáp ứng trong thời gian dài, trong khi hiện nay nhu cầu viên nén trên thị trường quốc tế rất lớn, nhất là thị trường Hàn Quốc và Nhật Bản.
Rõ ràng, câu chuyện nghịch lý này xuất phát từ khâu tổ chức sản xuất thiếu liên kết. Chính sự thiếu liên kết này khiến cả hai bên mất đi cơ hội đột phá trong sản xuất kinh doanh. Người dân thì gặp khó khăn đầu ra lâm sản, còn doanh nghiệp lại mất đi cơ hội để có được những hợp đồng có giá trị kinh tế lớn và lâu dài.
Cây keo lai có giá ổn định từ 150-180 triệu đồng/ha. |
Ða dạng sinh kế phụ
Ða dạng sinh kế để tạo nguồn thu lấy ngắn nuôi dài là giải pháp đã được quan tâm triển khai nhiều trong các lâm phần. Mật ong, chuối, cá, lúa và cả du lịch sinh thái cộng đồng… đã và đang mang lại hiệu quả.
Sở hữu đến 3 mảnh rừng tại Ấp 15, xã Nguyễn Phích, huyện U Minh, 2 trong số đó đã được kê liếp trồng tràm theo hình thức thâm canh hơn 3 năm tuổi, do đó, giá gỗ tràm giảm thấp như hiện nay khiến ông Nguyễn Văn Lời không tránh được lo lắng. Tuy nhiên, nhờ khai thác tốt phần diện tích mặt nước, bờ bao để nuôi cá, trồng chuối và cây ăn trái đã giúp gia đình không phải quá trông chờ vào sản phẩm cây gỗ.
Ông Lời chia sẻ: “Nếu giá không lên sẽ gồng mình để trồng luôn rừng gỗ lớn. Có thể sẽ gặp chút khó khăn nhưng chắc không đến nỗi. Nguồn thu từ chuối, cây ăn trái và các sản vật khác dưới tán rừng cũng có thể giúp gia đình tôi vượt qua được những thời điểm khó khăn”.
Tạo sinh kế phụ là hướng đi phổ biến hiện nay trong các lâm phần trên cả nước. Nói là sinh kế phụ nhưng nhiều mô hình nuôi động vật hoang dã, như chồn, nhím, bồ câu... tại một số vùng rừng ở các tỉnh ÐBSCL đã giúp nhiều bà con trong lâm phần trở nên giàu có.
Nói đến sinh kế phụ, ông Lý Minh Kha, Phó giám đốc Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau, kiến nghị, ngành nông nghiệp cần nhiều hơn nữa mô hình sinh kế phụ để phục vụ sinh hoạt và cuộc sống hàng ngày trong thời gian chờ đợi nguồn thu chính là cây rừng. Còn như hiện nay phụ thuộc quá lớn vào cây rừng mà giá trị mang về lại thấp thì người dân khó có thể phát triển lên được. “Cho đến lúc này, hướng đi mang lại hiệu quả cao nhất là phát triển du lịch sinh thái”, ông Kha nhận định.
Phát triển du lịch sinh thái cũng là hướng đi mà Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp U Minh Hạ đang lựa chọn. Ông Trần Ngọc Thảo cho biết, hiện nay Khu Du lịch sinh thái Sông Trẹm đang phát triển khá tốt, công ty đang tập trung phát triển các loại hình du lịch để tăng giá trị nguồn thu từ rừng.
Theo định hướng phát triển kinh tế lâm nghiệp từ nay đến năm 2030, tỉnh Cà Mau xác định giải pháp đột phá là tập trung phát triển mạnh mô hình chuỗi lâm nghiệp, để khắc phục tình trạng mất cân đối về cơ cấu giữa biên độ rừng trồng và chế biến sâu, tức trồng rừng đi đôi với chế biến sâu. Cụ thể, đến năm 2025 đạt tốc độ tăng giá trị sản xuất rừng bình quân 5%/năm; giá trị gia tăng bình quân 4%/năm; năng suất rừng trồng đạt bình quân 30 m3/ha/năm. Diện tích rừng trồng sản xuất được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững đạt khoảng 10.000 ha…
Ðể đạt được những mục tiêu này, ông Nguyễn Văn Quân cho biết, ngành đã xác định khâu đột phá cho kinh tế lâm nghiệp là tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị. Chỉ có hình thành được chuỗi lâm nghiệp mới có tính chất bền vững, tạo lợi thế cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh tế cho người trồng rừng và hình thành được thị trường Hydro Cacbon trong lĩnh vực lâm nghiệp.
Là nơi có diện tích rừng trên 43.582 ha, chiếm hơn 56% diện tích tự nhiên của huyện, với 6 xã, có 6.700 hộ được giao đất giao rừng, cùng 13 đơn vị trực tiếp quản lý, bảo vệ rừng, huyện U Minh đang tập trung nhiều giải pháp để tạo đột phá trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Việc chăm sóc rừng luôn được quan tâm để nâng cao chất lượng sản lượng cây rừng. |
Ông Lê Hồng Thịnh, Phó chủ tịch UBND huyện U Minh, cho biết, huyện đang tập trung tuyên truyền bằng nhiều hình thức để nâng cao nhận thức của người dân. Ðồng thời, triển khai các mô hình kinh tế, áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến trong trồng rừng, nhất là diện tích trồng rừng tập trung gỗ lớn để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, nâng cao đời sống người dân dưới tán rừng.
Liên kết trong sản xuất, tạo vùng nguyên liệu tập trung chất lượng cao phục vụ phát triển ngành chế biến sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng đất lâm nghiệp để tiến tới mục tiêu kinh tế rừng được phát triển nhanh nhất, bền vững nhất, công tác bảo vệ, quản lý rừng đạt kết quả tốt nhất, đời sống người dân trong lâm phần phát triển tốt nhất. Từ đó, không chỉ góp phần vào sự phát triển chung của kinh tế toàn tỉnh, mà còn phòng, chống thiên tai, biến đổi khí hậu.
Liên quan đến nội dung phát triển kinh tế lâm nghiệp, ông Lê Văn Sử, Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, chỉ đạo, các đơn vị tiến hành rà soát, hướng dẫn các chủ rừng xây dựng đề án phát triển du lịch sinh thái, giải trí, nghỉ dưỡng ở những vị trí phù hợp, có tiềm năng, lợi thế, đảm bảo khả thi khi triển khai thực hiện. Tổ chức rà soát, đánh giá việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hiệu quả kinh tế từng loại cây lâm nghiệp để có giải pháp tháo gỡ khó khăn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh tế lâm nghiệp.
Nguyễn Phú