ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 24-11-24 08:56:11
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

20 năm vững vàng “Làng goá phụ”

Báo Cà Mau (CMO) Giọt nước mắt những người goá phụ lại rơi khi gợi nhớ về chuyện 20 năm trước. Đó là ngày bão Linda (bão số 5 năm 1997) quét qua Cà Mau, biến xóm ven biển Kinh Xáng Mới, xã Khánh Hội, huyện U Minh thành “Làng goá phụ”. Chỉ trong một ngày, cuộc sống của những người còn ở lại trở nên đảo lộn. 20 năm sau, họ vẫn vững vàng, thay chồng làm trụ cột gia đình…

Những người có người thân đi biển trong bão số 5 năm 1997 lặn lội đến các cửa biển chờ mong. (Ảnh tư liệu Báo Cà Mau)

Kinh Xáng Mới, Biện Nhị, Chệt Tửng, Lung Lá thuộc xã Khánh Hội, huyện U Minh là những địa danh gánh chịu hậu quả tang thương nhất do bão Linda để lại với hơn 500 ngư dân thiệt mạng. Trong vòng quay cuộc sống, nhiều g phụ tiếp tục thờ chồng và cũng không ít người bước thêm bước nữa. Nhưng dù thế nào, nỗi đau cũ vẫn còn in sâu trong tâm khảm của người dân nơi đây.

20 năm nuôi con…

Ngồi trên ghe nhìn mưa lất phất rơi ngoài kinh Xáng Mới, xã Khánh Hội, chị Hồng Kim Yến trầm ngâm: “Cũng ngày mùng 3 tháng 10 âm lịch của 20 năm về trước, tôi vừa tròn 19 tuổi và mang thai đứa con đầu lòng. 11 giờ trưa, mưa rả rích, mây đen kịt. Đến khoảng 4–5 giờ chiều, gió mạnh dần làm tốc mái nhiều ngôi nhà xung quanh. Cứ ngỡ là bão đã đi qua nhưng không ngờ rạng sáng ngày mùng 4, cả xóm biển nhận được tin dữ - cơn bão số 5 đã dìm tất cả các ghe biển ngoài khơi”, chị Yến thẫn thờ.

“Nửa tỉnh nửa mê, tôi hòa theo dòng người chạy như bay về cửa biển Khánh Hội ngóng tin chồng. Mỗi người ngồi một góc, gương mặt thẫn thờ dõi mắt ra biển, chẳng ai khóc nổi thành tiếng. Đến ngày mùng Sáu, những tia hy vọng dần tắt. Tôi nghĩ rằng, con trai mình không còn cơ hội gặp mặt cha”, chị Yến tâm sự.

Nào ngờ, tối mùng Sáu, chồng chị Yến trở về như một kỳ tích. Anh được ghe biển Kiên Giang cứu sống trong khi 6 người đi cùng đã không còn ai sống sót. Giây phút đoàn tụ, chị Yến chỉ biết đứng từ xa nhìn chồng và nước mắt cứ trào tuôn. Chị nói, cả đời chị không thể nào phai nhạt hình ảnh ấy.

Nhưng rất hiếm người may mắn như chị Yến, đa số các chị còn lại đều ngóng tin chồng trong tuyệt vọng. Ngày nhận tin chồng mất tích trong bão dữ, bà Trần Thị Giang, 51 tuổi, Ấp 4, xã Khánh Hội như điên, như dại. Bà gởi 4 con nhỏ về quê ngoại, rồi thơ thẫn như xác không hồn, ra ngoài cửa biển Khánh Hội chờ đợi một phép màu. Bà Giang kể: “Tới ngày mùng Bảy thì mỗi nhà đều làm ly hương, đội khăn tang thờ chồng, thờ con. Ban ngày xóm biển vắng tanh, chỉ nghe mùi nhang khói hòa với gió biển. Cứ thế kéo dài ròng rã từ ngày này sang ngày khác”.

Nước mắt lăn dài trên gò má, bà Giang tiếp: “Bão tan, nhà cửa cũng tan tành. Mỗi lần thấy tôi khóc, mấy đứa nhỏ ngồi im sau lưng nhìn mẹ. Đứa lớn nhất đến lau nước mắt cho tôi rồi động viên: “Mẹ ơi, đừng khóc! Con sẽ thay ba lo cho mẹ”. Câu nói ngây thơ đã thúc giục tôi phải giựt dậy tinh thần để thay chồng nuôi nấng các con nên người”.

Quyết tâm không bước thêm bước nữa, người phụ nữ trẻ không màng nắng mưa, làm thuê đủ thứ nghề để trở thành trụ cột gia đình. Đó là quyết định của “hoa khôi xóm biển”, bà Trần Thị Lăng, giờ đã 58 tuổi, ngụ Ấp 4, xã Khánh Hội. Vợ chồng bà Lăng tuy còn trẻ tuổi nhưng sở hữu gia tài đáng mơ ước. Hai chiếc ghe biển lớn của gia đình đã giải quyết việc làm cho nhiều ngư dân trong xóm. Và tháng 10/1997 là lần cuối cùng bà nhìn thấy nó mang theo chồng và con trai đi biệt tăm.

Bà Trần Thị Lăng rưng rưng khi nhớ về những ngày tang thương 20 năm trước.

Khác với những người phụ nữ khác rối rít chạy ra cửa biển đợi tin chồng, bà Lăng đã ngất xỉu ngay lúc nhận được tin bão. Sau khi bình tĩnh lại, bà đi tìm chồng khắp các cửa biển và cả những hòn đảo xa xôi với hy vọng chồng vẫn còn sống hoặc có thể tìm thấy xác. Hễ nghe ở đâu vớt được xác, bà Lăng đều bao đò dọc để đến đó nhận dạng, rồi thất vọng quay về. Hành trình tìm chồng suốt 5, 6 năm trời đã mỏi mệt khi bà nhận ra 3 đứa con nhỏ đã mất cha còn phải chờ mẹ.

Thế là bà Lăng về xóm biển nhang khói cho chồng và lao đầu vào công việc để quên đi thời gian. Bà bộc bạch: “Tôi chưa bao giờ nghĩ chồng tôi đã chết. Tôi vẫn luôn mong một ngày nào đó ông ấy sẽ trở về với mẹ con tôi”. Và đó là động lực để bà Lăng sống tốt hơn mỗi ngày, dẫu đến nay bà đã dựng vợ gã chồng cho các con và sum vầy bên đàn cháu nhưng ông chồng vẫn biệt vô âm tính. Nhưng bà Lăng vẫn tin có 1 ngày…

Dẫu sao bà Lăng cũng còn 1 “số vốn kha khá” khi danh sách người mất tích dán tại Đồn Biên phòng Khánh Hội có tên con trai bà, nhưng mấy hôm sau nó lại về khi mà đồ tẩn liệm, xóm làng đã mua đủ, sau phải mang đi đốt bỏ… Rồi vài năm sau, con lớn của bà, anh Trần Văn Húng, người “chết hụt giữa biển khơi”, lại đi làm tài công kiếm sống. Đứa lớn dìu dắt đứa nhỏ, đến nay 3 anh con trai lớn của bà đều làm tài công, riêng con trai Út, mấy anh dành dụm mua một chiếc ghe để anh câu mực mé, thu nhập ổn định, dù không giàu có nhưng cũng đủ ăn, có tích luỹ.

Đã có chúng tôi!

Một tháng sau bão, xóm biển thưa hẳn người. Cả con kinh Xáng Mới cũng chẳng thấy bóng dáng của mấy người đàn ông. Rồi nhiều bà mẹ ôm con bỏ xứ ra đi vì muốn chôn vùi quá khứ đau thương, phần vì mưu sinh khi đã mất trụ cột gia đình.

Ông Huỳnh Chuông (Ba Chuông), Bí thư Chi bộ ấp 4, xã Khánh Hội (nguyên Trưởng Ấp 7, xã Khánh Lâm năm 1997, nay là các ấp: 3, 4, 5, 6, 7 xã Khánh Hội), ngậm ngùi, chỉ tính riêng Ấp 7 lúc đó đã có hơn 100 ngư dân bỏ mạng trong bão Linda nhưng chỉ vớt xác được 1 người. Nguyên dân dẫn đến bi kịch là do sự chủ quan của ngư dân, khi đi biển không trang bị dụng cụ cứu sinh; các thiết bị vô tuyến lúc đó thì không ai có.

Ông Ba Chuông kể, thời khắc đó không ai có thể quên được cảnh làng xóm đổ nát. Trong hoạn nạn, tinh thần “lá lành đùm lá rách” đã được phát huy cao độ. Chính quyền địa phương và cả cộng đồng xã hội hướng về vùng tang thương này, đến từng hộ gia đình trao tiền, quà hỗ trợ sau thiên tai; vận động các bà, các chị kìm nén đau thương, ổn định cuộc sống.

Bà Trần Thị Lăng hồi nhớ, hồi ấy bà được hỗ trợ gạo, thức ăn, cả gia đình ăn cả năm mà không hết. Cũng nhờ hỗ trợ tiền nhiều, bà mới có đủ kinh phí đi tìm chồng mấy năm ròng rã, vì tài sản là 2 chiếc ghe đã mất tích cùng chồng và những bạn ghe.

Sau bi kịch này, cả nước và các kiều bào nước ngoài chung tay, hỗ trợ để chia sẻ nỗi đau quá lớn và khắc phục hậu quả thiên tai. Bà Trần Thị Giang, chị dâu anh Nguyễn Văn Dụ, trải lòng: “Cứ cách vài ngày là cán bộ ấp, xã lại đến động viên gia đình tôi. Họ giúp tôi sửa nhà rồi khuyến khích, hỗ trợ tụi nhỏ tiếp tục đến trường. Vài năm sau cũng vậy, đến ngày đám giỗ chồng là họ lại đến thắp nén hương rồi hỏi thăm cuộc sống của mấy mẹ con. Chính vì thế giúp tôi có thêm động lực gắn bó nơi đây”.

“Ác mộng đã qua. Giờ đây con cái của tôi đều đã thành gia lập thất và tụi nó lại tiếp tục nối nghiệp của cha. Không những không sợ hãi khi ra biển khơi mà tụi nó còn vững tin cha sẽ phù hộ cho ghe biển được nhiều cá, mực...”, bà Giang lau nước mắt.

Chị Hồng Kim Yến có lẽ là người phụ nữ may mắn nhất xóm Kinh Xáng Mới này khi anh Nguyễn Văn Dụ, chồng chị là người duy nhất về trên 2 chiếc ghe của anh em, dòng họ. Gia đình lớn của anh Dụ có 2 chiếc ghe cào mé, 14 người đi, trong đó có phân nửa là máu mủ ruột rà.

Vợ chồng anh Nguyễn Văn Dụ chuẩn bị cho chuyến ra khơi

Anh Dụ trải lòng: “Sau bão tính bỏ nghề, nhưng ở đây làm có 1 vụ lúa, hơn 10 công đất, không dư dả gì. Những tháng nông nhàn thì chan chát, không có thu nhập nên 2 năm sau, tôi đánh liều đi làm tài công cho ghe người ta. Rồi dành dụm, mua 1 chiếc ghe nhỏ, giờ sắm chiếc lớn hơn nhưng cũng chỉ câu mực mé”. Anh cũng là người đàn ông bản lĩnh nhất xứ này khi dong ghe đi câu mực một mình trên biển từ trưa hôm nay đến sáng hôm sau mới về.

Làng cá Khánh Hội 20 năm sau bão số 5. Ảnh: Lê Chí

“Làng goá phụ” giờ đã đổi thay. Con kinh Xáng Mới đã tấp nập ghe biển và con đường lộ bê tông đã nối liền thôn xóm, tiếng nói cười của trẻ con vang vọng. Chị Yến chia sẻ: “Con trai tôi đã tròn 20 tuổi, hiện nó đã nhập ngũ nhưng vẫn hay gọi về hứa rằng sau khi ra quân sẽ về đi biển với cha”. Và chiếc ghe của anh Dụ sẽ có bạn đồng hành, bớt cô đơn giữa biển khơi, đêm tối.

Nghề biển đã ăn sâu vào tâm thức người dân nơi đây, từ thế hệ này tiếp nối thế hệ khác vẫn bám biển mưu sinh. Những chàng trai mười tám, đôi mươi ngày ngày vẫn hào hứng ra biển với niềm hy vọng mới…/.

Ông Châu Minh Đảm, Phó chủ tịch UBND xã Khánh Hội, huyện U Minh cho biết, 20 năm sau cơn bão Linda, đời sống của ngư dân Khánh Hội đã nâng lên rõ nét. Ngoài đi biển, các chị em phụ nữ còn kiếm sống bằng những nghề truyền thống nhờ tham gia các lớp dạy nghề ở địa phương. Thu nhập dù chưa đạt tiêu chí nông thôn mới, chỉ mới 31 triệu đồng/người, nhưng xã từ con số không sau bão, nay đã đạt 10/19 tiêu chí nông thôn mới. Đa phần trẻ em được đến trường và năm học này, có đến 95% học sinh của trường THCS Khánh Hội được chuyển lên học THPT ở Khánh Lâm, cách đó khoảng 7 km. Đây là con số rất có ý nghĩa khi trước đây đa số người dân chỉ trú trọng mưu sinh trước mắt, nay họ đã biết đầu tư lâu dài: đầu tư từ giáo dục thế hệ trẻ.

 Phùng Ngọc Trầm 

 

 

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài cuối: Thầm lặng việc thiện nguyện

Gương mặt đôn hậu, nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi là điều dễ tạo thiện cảm với bất cứ ai khi gặp cô Phạm Thị Ngọc Thảo, giáo viên Trường Tiểu học Phường 6/2, TP Cà Mau. Nhiều năm duy trì “Tủ bánh mì yêu thương”, lặng thầm trao hàng trăm món quà thiết thực tới những hoàn cảnh kém may mắn, cô Thảo cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sẻ chia.

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài 2: Người gieo hạnh phúc

Mỗi ngày trôi qua, trên khắp quê hương Cà Mau xuất hiện nhiều tấm gương bình dị mà cao quý. Ðó là câu chuyện của người phụ nữ vượt qua nỗi đau của bản thân để dìu dắt những người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, là câu chuyện của những cựu chiến binh giàu nghĩa cử cao đẹp... Họ thầm lặng đóng góp cho đời, gieo hạt giống yêu thương, điểm tô cho cuộc sống thêm những gam màu tươi sáng.

Tô thắm vườn hoa tử tế

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nói, xã hội ta có rất nhiều những tấm gương người tốt, việc tốt. Họ có mặt khắp nơi, đó là những bông hoa đẹp trong rừng hoa đẹp. Ðiều đó được minh chứng ở Cà Mau, nơi tình đất - tình người bền chặt thuỷ chung, sâu nặng nghĩa tình. Trong hành trình phát triển quê hương, bằng những việc làm trượng nghĩa, người Cà Mau đã tô thắm thêm vườn hoa tử tế, làm lay động bao trái tim và lan toả giá trị sống tốt đẹp.

Cửa Lớn mở tương lai

Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài cuối: Bàn về giải pháp

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ người hoạt động ở ấp, khóm kế cận ở Cà Mau đầy sinh động, với nhiều cách làm hay, kinh nghiệm hữu ích. Bằng việc kết nối, đảm bảo tính kế thừa để phát huy tối đa những ưu điểm, bổ trợ những hạn chế giữa các thế hệ; đội ngũ này vừa ổn định vừa có những điểm sáng đột phá gắn với xu hướng trẻ hoá, chuẩn hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển khởi sắc của tỉnh nhà cũng đang tạo ra môi trường tốt để nhiều người trẻ chọn trở về gắn bó lập thân, lập nghiệp.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài 2: Những tín hiệu tích cực

Năng nổ, nhiệt huyết, nhạy bén và dám nghĩ, dám làm đang là những ghi nhận, đánh giá của các cấp uỷ đảng, chính quyền và Nhân dân khi nói về những người trẻ tuổi hoạt động ở ấp, khóm. Không khí tươi mới với nguồn năng lượng tích cực của đội ngũ trẻ đã thực sự trở thành điểm sáng ở nhiều địa bàn ấp, khóm ở Cà Mau trong hành trình phát triển. Ðó cũng là gợi ý hữu ích để Cà Mau tiếp tục công việc chuẩn hoá, trẻ hoá; tăng cường chất lượng và xây dựng đội ngũ kế thừa đảm đương nhiệm vụ ở khóm, ấp trong bối cảnh hiện nay.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng

Thực tế đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở ấp, khóm trong việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Ðây là cánh tay nối dài của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp, sâu sát nhất với Nhân dân. Mọi chuyển động của cấp “cơ sở của cơ sở” sẽ quyết định đến việc thành hay bại của một quyết sách, một chủ trương, một phong trào... gắn với nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của từng địa phương.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.