ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 10-5-25 22:43:52
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

20 năm vững vàng “Làng goá phụ”

Báo Cà Mau (CMO) Giọt nước mắt những người goá phụ lại rơi khi gợi nhớ về chuyện 20 năm trước. Đó là ngày bão Linda (bão số 5 năm 1997) quét qua Cà Mau, biến xóm ven biển Kinh Xáng Mới, xã Khánh Hội, huyện U Minh thành “Làng goá phụ”. Chỉ trong một ngày, cuộc sống của những người còn ở lại trở nên đảo lộn. 20 năm sau, họ vẫn vững vàng, thay chồng làm trụ cột gia đình…

Những người có người thân đi biển trong bão số 5 năm 1997 lặn lội đến các cửa biển chờ mong. (Ảnh tư liệu Báo Cà Mau)

Kinh Xáng Mới, Biện Nhị, Chệt Tửng, Lung Lá thuộc xã Khánh Hội, huyện U Minh là những địa danh gánh chịu hậu quả tang thương nhất do bão Linda để lại với hơn 500 ngư dân thiệt mạng. Trong vòng quay cuộc sống, nhiều g phụ tiếp tục thờ chồng và cũng không ít người bước thêm bước nữa. Nhưng dù thế nào, nỗi đau cũ vẫn còn in sâu trong tâm khảm của người dân nơi đây.

20 năm nuôi con…

Ngồi trên ghe nhìn mưa lất phất rơi ngoài kinh Xáng Mới, xã Khánh Hội, chị Hồng Kim Yến trầm ngâm: “Cũng ngày mùng 3 tháng 10 âm lịch của 20 năm về trước, tôi vừa tròn 19 tuổi và mang thai đứa con đầu lòng. 11 giờ trưa, mưa rả rích, mây đen kịt. Đến khoảng 4–5 giờ chiều, gió mạnh dần làm tốc mái nhiều ngôi nhà xung quanh. Cứ ngỡ là bão đã đi qua nhưng không ngờ rạng sáng ngày mùng 4, cả xóm biển nhận được tin dữ - cơn bão số 5 đã dìm tất cả các ghe biển ngoài khơi”, chị Yến thẫn thờ.

“Nửa tỉnh nửa mê, tôi hòa theo dòng người chạy như bay về cửa biển Khánh Hội ngóng tin chồng. Mỗi người ngồi một góc, gương mặt thẫn thờ dõi mắt ra biển, chẳng ai khóc nổi thành tiếng. Đến ngày mùng Sáu, những tia hy vọng dần tắt. Tôi nghĩ rằng, con trai mình không còn cơ hội gặp mặt cha”, chị Yến tâm sự.

Nào ngờ, tối mùng Sáu, chồng chị Yến trở về như một kỳ tích. Anh được ghe biển Kiên Giang cứu sống trong khi 6 người đi cùng đã không còn ai sống sót. Giây phút đoàn tụ, chị Yến chỉ biết đứng từ xa nhìn chồng và nước mắt cứ trào tuôn. Chị nói, cả đời chị không thể nào phai nhạt hình ảnh ấy.

Nhưng rất hiếm người may mắn như chị Yến, đa số các chị còn lại đều ngóng tin chồng trong tuyệt vọng. Ngày nhận tin chồng mất tích trong bão dữ, bà Trần Thị Giang, 51 tuổi, Ấp 4, xã Khánh Hội như điên, như dại. Bà gởi 4 con nhỏ về quê ngoại, rồi thơ thẫn như xác không hồn, ra ngoài cửa biển Khánh Hội chờ đợi một phép màu. Bà Giang kể: “Tới ngày mùng Bảy thì mỗi nhà đều làm ly hương, đội khăn tang thờ chồng, thờ con. Ban ngày xóm biển vắng tanh, chỉ nghe mùi nhang khói hòa với gió biển. Cứ thế kéo dài ròng rã từ ngày này sang ngày khác”.

Nước mắt lăn dài trên gò má, bà Giang tiếp: “Bão tan, nhà cửa cũng tan tành. Mỗi lần thấy tôi khóc, mấy đứa nhỏ ngồi im sau lưng nhìn mẹ. Đứa lớn nhất đến lau nước mắt cho tôi rồi động viên: “Mẹ ơi, đừng khóc! Con sẽ thay ba lo cho mẹ”. Câu nói ngây thơ đã thúc giục tôi phải giựt dậy tinh thần để thay chồng nuôi nấng các con nên người”.

Quyết tâm không bước thêm bước nữa, người phụ nữ trẻ không màng nắng mưa, làm thuê đủ thứ nghề để trở thành trụ cột gia đình. Đó là quyết định của “hoa khôi xóm biển”, bà Trần Thị Lăng, giờ đã 58 tuổi, ngụ Ấp 4, xã Khánh Hội. Vợ chồng bà Lăng tuy còn trẻ tuổi nhưng sở hữu gia tài đáng mơ ước. Hai chiếc ghe biển lớn của gia đình đã giải quyết việc làm cho nhiều ngư dân trong xóm. Và tháng 10/1997 là lần cuối cùng bà nhìn thấy nó mang theo chồng và con trai đi biệt tăm.

Bà Trần Thị Lăng rưng rưng khi nhớ về những ngày tang thương 20 năm trước.

Khác với những người phụ nữ khác rối rít chạy ra cửa biển đợi tin chồng, bà Lăng đã ngất xỉu ngay lúc nhận được tin bão. Sau khi bình tĩnh lại, bà đi tìm chồng khắp các cửa biển và cả những hòn đảo xa xôi với hy vọng chồng vẫn còn sống hoặc có thể tìm thấy xác. Hễ nghe ở đâu vớt được xác, bà Lăng đều bao đò dọc để đến đó nhận dạng, rồi thất vọng quay về. Hành trình tìm chồng suốt 5, 6 năm trời đã mỏi mệt khi bà nhận ra 3 đứa con nhỏ đã mất cha còn phải chờ mẹ.

Thế là bà Lăng về xóm biển nhang khói cho chồng và lao đầu vào công việc để quên đi thời gian. Bà bộc bạch: “Tôi chưa bao giờ nghĩ chồng tôi đã chết. Tôi vẫn luôn mong một ngày nào đó ông ấy sẽ trở về với mẹ con tôi”. Và đó là động lực để bà Lăng sống tốt hơn mỗi ngày, dẫu đến nay bà đã dựng vợ gã chồng cho các con và sum vầy bên đàn cháu nhưng ông chồng vẫn biệt vô âm tính. Nhưng bà Lăng vẫn tin có 1 ngày…

Dẫu sao bà Lăng cũng còn 1 “số vốn kha khá” khi danh sách người mất tích dán tại Đồn Biên phòng Khánh Hội có tên con trai bà, nhưng mấy hôm sau nó lại về khi mà đồ tẩn liệm, xóm làng đã mua đủ, sau phải mang đi đốt bỏ… Rồi vài năm sau, con lớn của bà, anh Trần Văn Húng, người “chết hụt giữa biển khơi”, lại đi làm tài công kiếm sống. Đứa lớn dìu dắt đứa nhỏ, đến nay 3 anh con trai lớn của bà đều làm tài công, riêng con trai Út, mấy anh dành dụm mua một chiếc ghe để anh câu mực mé, thu nhập ổn định, dù không giàu có nhưng cũng đủ ăn, có tích luỹ.

Đã có chúng tôi!

Một tháng sau bão, xóm biển thưa hẳn người. Cả con kinh Xáng Mới cũng chẳng thấy bóng dáng của mấy người đàn ông. Rồi nhiều bà mẹ ôm con bỏ xứ ra đi vì muốn chôn vùi quá khứ đau thương, phần vì mưu sinh khi đã mất trụ cột gia đình.

Ông Huỳnh Chuông (Ba Chuông), Bí thư Chi bộ ấp 4, xã Khánh Hội (nguyên Trưởng Ấp 7, xã Khánh Lâm năm 1997, nay là các ấp: 3, 4, 5, 6, 7 xã Khánh Hội), ngậm ngùi, chỉ tính riêng Ấp 7 lúc đó đã có hơn 100 ngư dân bỏ mạng trong bão Linda nhưng chỉ vớt xác được 1 người. Nguyên dân dẫn đến bi kịch là do sự chủ quan của ngư dân, khi đi biển không trang bị dụng cụ cứu sinh; các thiết bị vô tuyến lúc đó thì không ai có.

Ông Ba Chuông kể, thời khắc đó không ai có thể quên được cảnh làng xóm đổ nát. Trong hoạn nạn, tinh thần “lá lành đùm lá rách” đã được phát huy cao độ. Chính quyền địa phương và cả cộng đồng xã hội hướng về vùng tang thương này, đến từng hộ gia đình trao tiền, quà hỗ trợ sau thiên tai; vận động các bà, các chị kìm nén đau thương, ổn định cuộc sống.

Bà Trần Thị Lăng hồi nhớ, hồi ấy bà được hỗ trợ gạo, thức ăn, cả gia đình ăn cả năm mà không hết. Cũng nhờ hỗ trợ tiền nhiều, bà mới có đủ kinh phí đi tìm chồng mấy năm ròng rã, vì tài sản là 2 chiếc ghe đã mất tích cùng chồng và những bạn ghe.

Sau bi kịch này, cả nước và các kiều bào nước ngoài chung tay, hỗ trợ để chia sẻ nỗi đau quá lớn và khắc phục hậu quả thiên tai. Bà Trần Thị Giang, chị dâu anh Nguyễn Văn Dụ, trải lòng: “Cứ cách vài ngày là cán bộ ấp, xã lại đến động viên gia đình tôi. Họ giúp tôi sửa nhà rồi khuyến khích, hỗ trợ tụi nhỏ tiếp tục đến trường. Vài năm sau cũng vậy, đến ngày đám giỗ chồng là họ lại đến thắp nén hương rồi hỏi thăm cuộc sống của mấy mẹ con. Chính vì thế giúp tôi có thêm động lực gắn bó nơi đây”.

“Ác mộng đã qua. Giờ đây con cái của tôi đều đã thành gia lập thất và tụi nó lại tiếp tục nối nghiệp của cha. Không những không sợ hãi khi ra biển khơi mà tụi nó còn vững tin cha sẽ phù hộ cho ghe biển được nhiều cá, mực...”, bà Giang lau nước mắt.

Chị Hồng Kim Yến có lẽ là người phụ nữ may mắn nhất xóm Kinh Xáng Mới này khi anh Nguyễn Văn Dụ, chồng chị là người duy nhất về trên 2 chiếc ghe của anh em, dòng họ. Gia đình lớn của anh Dụ có 2 chiếc ghe cào mé, 14 người đi, trong đó có phân nửa là máu mủ ruột rà.

Vợ chồng anh Nguyễn Văn Dụ chuẩn bị cho chuyến ra khơi

Anh Dụ trải lòng: “Sau bão tính bỏ nghề, nhưng ở đây làm có 1 vụ lúa, hơn 10 công đất, không dư dả gì. Những tháng nông nhàn thì chan chát, không có thu nhập nên 2 năm sau, tôi đánh liều đi làm tài công cho ghe người ta. Rồi dành dụm, mua 1 chiếc ghe nhỏ, giờ sắm chiếc lớn hơn nhưng cũng chỉ câu mực mé”. Anh cũng là người đàn ông bản lĩnh nhất xứ này khi dong ghe đi câu mực một mình trên biển từ trưa hôm nay đến sáng hôm sau mới về.

Làng cá Khánh Hội 20 năm sau bão số 5. Ảnh: Lê Chí

“Làng goá phụ” giờ đã đổi thay. Con kinh Xáng Mới đã tấp nập ghe biển và con đường lộ bê tông đã nối liền thôn xóm, tiếng nói cười của trẻ con vang vọng. Chị Yến chia sẻ: “Con trai tôi đã tròn 20 tuổi, hiện nó đã nhập ngũ nhưng vẫn hay gọi về hứa rằng sau khi ra quân sẽ về đi biển với cha”. Và chiếc ghe của anh Dụ sẽ có bạn đồng hành, bớt cô đơn giữa biển khơi, đêm tối.

Nghề biển đã ăn sâu vào tâm thức người dân nơi đây, từ thế hệ này tiếp nối thế hệ khác vẫn bám biển mưu sinh. Những chàng trai mười tám, đôi mươi ngày ngày vẫn hào hứng ra biển với niềm hy vọng mới…/.

Ông Châu Minh Đảm, Phó chủ tịch UBND xã Khánh Hội, huyện U Minh cho biết, 20 năm sau cơn bão Linda, đời sống của ngư dân Khánh Hội đã nâng lên rõ nét. Ngoài đi biển, các chị em phụ nữ còn kiếm sống bằng những nghề truyền thống nhờ tham gia các lớp dạy nghề ở địa phương. Thu nhập dù chưa đạt tiêu chí nông thôn mới, chỉ mới 31 triệu đồng/người, nhưng xã từ con số không sau bão, nay đã đạt 10/19 tiêu chí nông thôn mới. Đa phần trẻ em được đến trường và năm học này, có đến 95% học sinh của trường THCS Khánh Hội được chuyển lên học THPT ở Khánh Lâm, cách đó khoảng 7 km. Đây là con số rất có ý nghĩa khi trước đây đa số người dân chỉ trú trọng mưu sinh trước mắt, nay họ đã biết đầu tư lâu dài: đầu tư từ giáo dục thế hệ trẻ.

 Phùng Ngọc Trầm 

 

 

Cà Mau - Ðịa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài cuối: Bừng sáng vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc

Cà Mau hôm nay đổi mới, phát triển từng ngày. Những cán bộ lão thành cách mạng, những bậc cao niên ở Cà Mau mà chúng tôi có dịp gặp, đã trải qua bom đạn chiến tranh, trải qua những ngày tháng Cà Mau còn đầy khó khăn, tất cả đều nói rằng, Cà Mau mình bây giờ đã phát triển nhiều lắm, đời sống Nhân dân đã sung túc hơn trước bội phần. Từ vùng đất hoang vu, nê địa; từ những đau thương, mất mát lớn lao trong kháng chiến; đến nay, Cà Mau đã vươn mình đi lên bằng sức vóc mới, thế và lực mới, để chặng đường phát triển tương lai sẽ làm bừng sáng vùng đất địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.

Cà Mau - địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 4: Vùng đất của những sản vật vang danh

Dù lên rừng hay xuống biển, Cà Mau đều sẵn có những đặc sản trứ danh. Nếu chỉ nhắc đến đại khái, nhiều người sẽ chưa thoả dạ hoặc lòng còn hoài nghi, thắc mắc. Sự trù phú của thiên nhiên hoà quyện với quá trình lao động siêng năng, bền bĩ, đúc kết kinh nghiệm và sự sáng tạo tài hoa của lớp lớp con người Cà Mau đã kết tụ nên giá trị và sức sống lâu bền của những sản vật đặc trưng ở vùng đất mới.

Lưu Hữu Phước – Nhạc sĩ tài danh đất Tây Đô

Hai ba thế hệ người Việt Nam hát những ca khúc của nhạc sĩ tài danh Lưu Hữu Phước. Không có cuộc đời nào, tâm hồn nào trên đất nước Việt Nam thân yêu thế kỷ vệ quốc anh hùng mà không được Lưu Hữu Phước giục giã.

Ngày giải phóng Cà Mau

Cà Mau - địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 3: Bức tranh văn hoá đa sắc

Dù ở vùng đất mới, gốc gác khác biệt, song khi về tới Cà Mau, thế hệ tiền nhân đã sớm ý thức về nguồn cội, quần tụ và cố kết với nhau bằng sợi chỉ đỏ chảy xuyên suốt của nền văn hoá dân tộc Việt Nam bốn ngàn năm: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi/Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”.

Cà Mau - Địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 2: Con người Cà Mau - Nét duyên xứ sở

Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng: “Con người là chủ thể văn hoá, cách ứng xử của con người với chính mình, với thiên nhiên và các mối quan hệ xã hội định hình nên đặc điểm và tính cách của nền văn hoá ấy”. Ở vùng đất mới Cà Mau, nếu không nói về con người Cà Mau, tính cách và cốt cách của con người Cà Mau thì quả thật là một điều thiếu sót lớn. Hồn cốt quê hương, khí phách của ông cha là nơi hậu thế soi chiếu vào đó để nhận diện được chính mình và khơi mở những chặng đường tương lai của mảnh đất này.

Cà Mau - Địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc

Khi Báo Cà Mau đăng loạt ghi chép pha chút hơi hướng khảo cứu này, tỉnh Cà Mau đang hừng hực khí thế, với thế và lực mới vững vàng hoà vào dòng chảy thời đại cùng cả dân tộc, đất nước Việt Nam tiến bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển phồn thịnh, giàu mạnh, hạnh phúc.

Dì tôi - Người đàn bà đi qua hai cuộc kháng chiến

Trước đây không lâu, Báo Cà Mau có đăng bài viết về chuyện bà Hai Ðầm tham gia trận diệt đồn Tân Bằng năm 1946. Trong trận đánh táo bạo này, bà được Chi bộ Thới Bình cài vào đồn giặc Pháp làm nội gián để cùng bộ đội ta thực hiện phương án “nội công ngoại kích”. Bài viết theo lời kể của ông Huỳnh Văn Tứ ở thị trấn Thới Bình, người cùng thế hệ và có mối quan hệ thân tộc với bà Hai Ðầm.

Giáo dục rộng mở khi tư duy đổi chiều - Bài cuối: Ðổi mới phương pháp dạy và học

Việc Bộ Giáo dục và Ðào tạo (GD&ÐT) siết chặt quản lý dạy thêm, học thêm theo Thông tư số 29/2024/TT-BGDÐT quy định về dạy thêm, học thêm (Thông tư 29) đã nhận được sự đồng thuận của xã hội. Bởi chính phụ huynh, học sinh và cả các thầy cô giáo nhận ra đã đến lúc cần thay đổi tư duy giáo dục theo hướng mở.

Giáo dục rộng mở khi tư duy đổi chiều - Bài 2: Chia nhau trách nhiệm

Ðể siết chặt vấn đề dạy thêm - học thêm, nếu chỉ dựa vào nỗ lực của ngành giáo dục là chưa đủ, mà còn đòi hỏi sự nhìn nhận đúng và sự giám sát của phụ huynh, của xã hội.