ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 24-11-24 14:50:39
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Bến đợi Bạch Ngưu

Báo Cà Mau Hôm cùng đoàn của Tỉnh uỷ về trao Huy hiệu 70 năm tuổi Ðảng cho đồng chí Vũ Khắc Trung, tức Võ Thành Ngoạt, xã Tân Lộc, huyện Thới Bình, buổi lễ diễn ra trang trọng, ngắn gọn tại gia đình. Sau đó là bữa cháo vịt “cây nhà lá vườn” ngon thiệt ngon. Suốt buổi, chúng tôi thấy vợ chú Bảy Ngoạt cứ cười hoài (dù răng đã rụng nhiều) mà không đụng đũa. Hỏi bà, bà nói: “Tại mừng quá”.

Ở tuổi gần 90, ông Bảy cười hồn hậu: “Tới giờ có thể nói là tôi đã trọn lòng theo cách mạng rồi”. Bà Bảy như mọi khi, vẫn nhẫn nại ngồi cạnh lắng nghe ông trò chuyện. Khi chúng tôi hỏi: “Rồi hồi đó sao ông bà gặp nhau?”, mắt ông Bảy sáng lên: “Năm 1952, lúc đó tôi về Tiểu đoàn 307 do anh Nguyễn Văn Tiên làm Tiểu đoàn trưởng, lần đầu đặt chân tới đất Cà Mau...”.

... Ven dòng Bạch Ngưu, Tiểu đoàn 307 làm quân giặc khiếp vía với những trận đánh vang dội ở Bàu Thúi, Rạch Ván. Nhiều bận qua lại Tân Lộc, ông Bảy cứ để ý hoài cô cán bộ phụ nữ nhanh nhẹn, duyên dáng. Ðó là Bảy Dư. Và ông cũng thú thiệt: “Thứ Bảy mà mọi người hay gọi là kêu theo bên vợ, chớ tôi chỉ có 3 anh em”. Vậy là “trai Sài thành phải lòng con gái Bạch Ngưu”. Kháng chiến cao trào, tình riêng gác lại, những dòng sông nhỏ cuồn cuộn đổ về bể lớn, năm 1954.

Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ Cà Mau Phạm Bạch Ðằng và ông Vũ Khắc Trung - cái bắt tay thuỷ chung của hai thế hệ.           Ảnh: P.N

Những ngày đình chiến, các anh trong Tiểu đoàn 307 và người cô ruột của ông Bảy từ Sài Gòn về đứng ra làm chủ hôn cho ông bà. Ông vẫn nhớ như in: “Lúc đó mới đánh Tây xong, tinh thần lên cao lắm. Ðám cưới cũng có mần heo, đãi đằng đàng hoàng”. Hạnh phúc vừa chớm, ông được lệnh lên bến Cần Thơ để tập kết ra Bắc. Ông không hay biết ở nhà bà Bảy đã có thai. Pháp rút, Mỹ - Diệm kéo tới, đất Cà Mau lại chìm trong khói lửa.

Bà Bảy chậm rãi: “Tui ở nhà tiếp tục tham gia công tác ở xã, sanh con đặt tên là Võ Thị Lệ Khanh, sanh rồi lại đi miết”.

Một mình vừa hoạt động cách mạng, vừa nuôi con, nhưng điều trăn trở nhất của bà là: “Ổng đi rồi mà không có tin tức gì hết, tui cứ vậy đợi chờ”. Còn ông, “ngày Bắc đêm Nam”, chưa biết mình đã có đứa con gái đầu lòng, nghĩ thương cho người vợ ở đất Cà Mau xa xôi.

Trên đất Bắc, ông Bảy được học tập ở Trường Sĩ quan Lục quân khoá X, sau đó là lớp luyện gang thép trên Khu Gang thép Thái Nguyên, nung nấu ngày về. Năm 1961, ông được lệnh vượt Trường Sơn về chi viện cho miền Nam ruột thịt.

Trong đời ông, những ngày trên dãy Trường Sơn là những ngày không thể nào quên. Ông cùng đồng đội phải ăn lá rừng chống đói, những anh em sức khoẻ yếu, hoặc bị sốt rét rừng phải thay phiên nhau cõng đi. Ðau lòng nhất là đột ngột bắt gặp “chiếc võng cô đơn giữa rừng”, đó là những chiến sĩ đã mãi mãi yên giấc giữa rừng thiêng. Sau 4 tháng trời, ông và đồng đội về tới R (Trung ương Cục miền Nam, Tây Ninh). Như lời ông nói, mỗi bước chân trong hành trình ấy đều có miền Nam, có hình ảnh người vợ đợi chờ bên bến Bạch Ngưu…

Vẹn lòng sắt son

Về Nam, ông Bảy được điều động công tác ở Tỉnh đội Kiến Phong (nay là Ðồng Tháp). Ðơn vị cử người báo tin và dẫn đường bà Bảy từ Cà Mau lên thăm ông ở vùng giáp ranh biên giới Campuchia. Bà Bảy thổn thức: “Nghe tin rồi, tui bán tín, bán nghi, sợ giặc nó gài. Mà mừng quá, liều mạng dẫn con đi”.

Gặp lại nhau sau gần chục năm xa cách, ông Bảy nhìn đứa nhỏ rồi khóc nức nở. Bà Bảy như “trời trồng”, biểu: “Con Khanh, bây lại mừng ba”. Về lại Cà Mau, bà Bảy công tác càng hăng say, có điều bà có bầu đứa thứ hai, tụi giặc làm khó dễ vì nghi là “có chồng tập kết”. Bà nhờ một người bà con xa “nhận đại” cái thai. Sáng đi tổ chức mít-tinh, biểu tình, tối lại chẻ lác dệt chiếu, nuôi heo. Bà cười hiền khô: “Mình ráng công tác tiến bộ, nuôi con tốt để chồng hoàn thành nhiệm vụ. Cực mấy cũng chịu được”.

Cưới nhau năm 1954, mấy ngày đoàn tụ năm 1962, để rồi cho đến khi đất nước hoàn toàn thống nhất năm 1975, ông bà Bảy mới sum vầy. Chị Võ Lệ Hằng, con gái của ông bà, tâm sự: “Hồi mẹ bị bắt, tôi với chế Khanh ở nhờ cậu, chạy giặc liên miên, bơ vơ đói khổ. Tụi giặc bắt mẹ đem qua bên kia sông Bạch Ngưu đánh gần 50 báng súng. Rồi tụi nó giải mẹ ra Khám Lớn Cà Mau nhốt nửa năm”.

Bà Bảy một lời không khai, chỉ lo cho 2 con nhỏ ở nhà. Giặc bắt bà tra tấn dã man. Ở quê, ô buýt bắn cháy căn chòi nhỏ của mẹ con bà, đôi chiếu, con heo cũng cháy rụi. Nhẫn nại, chịu đựng, bà lại tiếp tục tham gia công tác, lòng dặn lòng phải đợi chồng về. Giữa TP Hồ Chí Minh trong ngày hội hoà bình, thống nhất, ông bà gặp lại. Ðứa con trai út tên Võ Quốc Trung ra đời. Vậy mà, cảnh gia đình ấm êm, đoàn tụ vẫn chưa thành sự thật.

Ông bà Bảy sớm tối bên nhau, bù đắp lại những khoảng thời gian xa cách.                       Ảnh: P.N

Ông Bảy cho biết: “Sau năm 1975, tôi nhận công tác để tiếp quản và ổn định tình hình sau giải phóng, khi ấy tôi được biên chế vào Quân khu 9”. Gặp nhau rồi lại xa cách, ông chỉ nói gọn hơ: “Trong hoàn cảnh ấy, khi nhiệm vụ còn nặng nề, vợ chồng cũng phải động viên nhau để tiếp tục làm tròn phận sự”.

Cả ông và bà đều tin chắc rằng chỉ một thời gian ngắn nữa thôi là gia đình sẽ được bên nhau. Vậy rồi biên giới Tây Nam lại ngập tràn tiếng súng, ông sang chiến trường Campuchia. Bà ở lại với chuỗi ngày đằng đẵng. Cấy lúa, dệt chiếu, buôn bán tảo tần để nuôi con, đợi chồng. 3 đứa con lâu lâu hỏi: “Ba nhìn ra sao hả má?”. Bà Bảy chiều chiều ra bờ sông Bạch Ngưu, lòng cũng thầm hỏi: “Hổng biết chừng nào ổng mới về?”.

Năm 1987, ông Bảy về thiệt, về hưu luôn. Tuy nhiên, ông chỉ đi đi về về giữa Cà Mau và TP Hồ Chí Minh. Bà Bảy tâm sự: “Ổng mồ côi, mồ cút, còn người anh ruột ở trên đó bệnh tật, nghèo khó không ai lo. Vậy là mình ên chạy ngược xuôi để sắp xếp”.

Người anh mất, năm 1997, ông về ở hẳn với bà tại Tân Lộc. Chúng tôi thắc mắc: “Vậy ông bà bên nhau đâu có bao lâu”. Ông bà nhìn nhau rồi cười. Ông 70 năm tuổi Ðảng, bà 55 năm tuổi Ðảng. Cả hai cùng là thương binh hạng 4/4. Một khu vườn nhỏ, 3 đứa con trưởng thành, một tổ ấm nằm san sát bên dòng Bạch Ngưu. Bấy nhiêu đó, cuộc đời còn có gì hối tiếc…

Ông Bảy sinh năm 1929 ở Tân Nhựt, Bình Chánh, Sài Gòn. Bà Bảy tên thật là Nguyễn Thị Dư, sinh năm 1935, tại Tân Lộc, bên dòng Bạch Ngưu. Ông Bảy là đứa trẻ mồ côi cha mẹ, làm cu li, làm mướn đủ mọi nghề để sống ở vùng ven Sài Gòn - Long An.

Tháng 8/1945, theo tiếng gọi núi sông, ông Bảy tham gia Vệ quốc đoàn cướp chính quyền. Tiếp đó, ông được điều chuyển tại các đơn vị thuộc Khu 8, đứng chân trong Tiểu đoàn 307 anh hùng. Ðến năm 1954, ông tập kết ra Bắc. Năm 1961, ông Bảy vượt Trường Sơn về Nam chiến đấu cho đến ngày nước nhà hoàn toàn giải phóng. Chưa ngơi nghỉ, ông lại sang chiến đấu tại chiến trường Campuchia. Ðến khi về nước, ông Bảy cũng đã tới tuổi hưu, đó là năm 1987.

Ghi chép của Phạm Nguyên

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài cuối: Thầm lặng việc thiện nguyện

Gương mặt đôn hậu, nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi là điều dễ tạo thiện cảm với bất cứ ai khi gặp cô Phạm Thị Ngọc Thảo, giáo viên Trường Tiểu học Phường 6/2, TP Cà Mau. Nhiều năm duy trì “Tủ bánh mì yêu thương”, lặng thầm trao hàng trăm món quà thiết thực tới những hoàn cảnh kém may mắn, cô Thảo cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sẻ chia.

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài 2: Người gieo hạnh phúc

Mỗi ngày trôi qua, trên khắp quê hương Cà Mau xuất hiện nhiều tấm gương bình dị mà cao quý. Ðó là câu chuyện của người phụ nữ vượt qua nỗi đau của bản thân để dìu dắt những người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, là câu chuyện của những cựu chiến binh giàu nghĩa cử cao đẹp... Họ thầm lặng đóng góp cho đời, gieo hạt giống yêu thương, điểm tô cho cuộc sống thêm những gam màu tươi sáng.

Tô thắm vườn hoa tử tế

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nói, xã hội ta có rất nhiều những tấm gương người tốt, việc tốt. Họ có mặt khắp nơi, đó là những bông hoa đẹp trong rừng hoa đẹp. Ðiều đó được minh chứng ở Cà Mau, nơi tình đất - tình người bền chặt thuỷ chung, sâu nặng nghĩa tình. Trong hành trình phát triển quê hương, bằng những việc làm trượng nghĩa, người Cà Mau đã tô thắm thêm vườn hoa tử tế, làm lay động bao trái tim và lan toả giá trị sống tốt đẹp.

Cửa Lớn mở tương lai

Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài cuối: Bàn về giải pháp

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ người hoạt động ở ấp, khóm kế cận ở Cà Mau đầy sinh động, với nhiều cách làm hay, kinh nghiệm hữu ích. Bằng việc kết nối, đảm bảo tính kế thừa để phát huy tối đa những ưu điểm, bổ trợ những hạn chế giữa các thế hệ; đội ngũ này vừa ổn định vừa có những điểm sáng đột phá gắn với xu hướng trẻ hoá, chuẩn hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển khởi sắc của tỉnh nhà cũng đang tạo ra môi trường tốt để nhiều người trẻ chọn trở về gắn bó lập thân, lập nghiệp.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài 2: Những tín hiệu tích cực

Năng nổ, nhiệt huyết, nhạy bén và dám nghĩ, dám làm đang là những ghi nhận, đánh giá của các cấp uỷ đảng, chính quyền và Nhân dân khi nói về những người trẻ tuổi hoạt động ở ấp, khóm. Không khí tươi mới với nguồn năng lượng tích cực của đội ngũ trẻ đã thực sự trở thành điểm sáng ở nhiều địa bàn ấp, khóm ở Cà Mau trong hành trình phát triển. Ðó cũng là gợi ý hữu ích để Cà Mau tiếp tục công việc chuẩn hoá, trẻ hoá; tăng cường chất lượng và xây dựng đội ngũ kế thừa đảm đương nhiệm vụ ở khóm, ấp trong bối cảnh hiện nay.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng

Thực tế đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở ấp, khóm trong việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Ðây là cánh tay nối dài của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp, sâu sát nhất với Nhân dân. Mọi chuyển động của cấp “cơ sở của cơ sở” sẽ quyết định đến việc thành hay bại của một quyết sách, một chủ trương, một phong trào... gắn với nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của từng địa phương.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.