ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 20-9-24 22:33:56
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Cà Mau dấu xưa

Báo Cà Mau (CMO) Nhà Nam Bộ học Sơn Nam từng lưu ý rằng: “Chúng ta nghiên cứu, tìm hiểu vì vấn đề chưa được giải đáp thoả mãn. Vì chưa thoả mãn nên còn tranh luận với nhau, tranh luận vì thiếu sót tài liệu, thiếu vài bằng cớ nào đó”. Từ đó dẫn đến hiện tượng “cưỡng tự đoạt lý”, nghĩa là kết luận hơi sớm, phiến diện hoặc thiếu thuyết phục. Ứng vào với vấn đề về lịch sử vùng đất Cà Mau, quả tình có nhiều công trình, đầu sách đề cập đến, tuy nhiên, việc nhận diện một Cà Mau thời mở đất một cách minh triết, khách quan, khoa học vẫn là câu chuyện bỏ ngõ. Vậy lịch sử vùng đất này bắt đầu từ đâu? Chúng tôi cũng chỉ là đọc lại tư liệu của người đi trước, gợi lên đôi nét phác hoạ về Cà Mau với những dấu xưa lưu luyến…

Phải từ thế kỷ XIX, vào năm 1836, dưới thời Minh Mạng triều Nguyễn, hành chính nước ta mới thống nhất từ ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau. Cà Mau lúc này thuộc huyện Long Xuyên, tỉnh Hà Tiên. Trong địa bạ của triều Nguyễn, một địa danh của Cà Mau được nhắc đến đó là Ðảo Vu (tức đảo Hòn Khoai) với nguồn nước ngọt quanh năm. Biển Cà Mau được mô tả với nhiều sản vật như hải sâm, đồi mồi, hàu, tôm, cá cơm, ốc tai voi… Ngoài ra, Cà Mau còn được triều đình đặt nhiều bảo luỹ, cửa tấn như Thủ sở Bình Giang (có ý kiến cho rằng là ở ngay TP Cà Mau ngày nay) và hàng loạt cửa biển trọng yếu có đặt lính trú phòng như Bồ Ðề, Tam Giang, Hiệp Phố (Bảy Háp), Hoàng Giang (cửa Ông Ðốc). Ðiều đáng nói, cả tỉnh Hà Tiên có 3 chợ lớn, trong đó Cà Mau có chợ Hoàng Giang.

Theo sử liệu, Cà Mau là nơi nhiều rừng trầm thuỷ, đặc biệt là tràm, đước, sú, vẹt. Dân có nghề ăn ong, làng nghề gọi là “thuộc hoàng lạp”. Thuế nộp về triều đình là sáp ong vàng. Còn một nguồn lợi khác mà người Cà Mau nay ít còn hồi ức, đó là “điểu đình”. "Ðại Nam nhất thống chí" ghi: “Những chim ở ngoài biển đến đậu từng bầy không biết muôn ngàn nào mà kể”. Thường đến kỳ thì dân lấy lông cánh mà bán cho thương lái (chủ yếu là người Hoa). Một số vườn chim nổi tiếng được nhắc đến là Chắc Băng, Ðầm Dơi, Cổ Cò, Cái Nước. Ngoài ra, các sản vật vùng Cà Mau thường gắn liền với địa danh như than Năm Căn, chiếu Tân Duyệt, mật ong U Minh, ba khía Rạch Gốc, cá thác lác Cái Tàu… Rất tiếc, Cà Mau giờ chỉ còn lưu giữ lại một vài cái tên từng vang danh thuở trước như ba khía Rạch Gốc, mật ong U Minh. Nhiều sản vật đã đi vào quá vãng.

Hoàng hôn Mũi Cà Mau. Ảnh: THANH DŨNG

"Ðại Nam nhất thống chí" ghi lại một số đặc trưng về sinh hoạt, tính cách và văn hoá người Cà Mau xưa: “Kẻ sĩ biết chữ, dân siêng làm ăn, ở gần biển thì làm nghề lưới đáy, cắm đăng để bắt cá. Ở gần rừng thì bắt chim và tổ ong để bán. Người quân tử hay thích điều nghĩa, siêng năng việc công. Kẻ bình dân thì an thường, thủ phận, không gian tham trộm cướp… Tính người mau lẹ, nữ công tinh xảo… Tang chế, lễ nghi theo Nho và cũng theo Phật”.

Một điều khó khăn, đó là việc xác định việc những cư dân Cà Mau bắt đầu quần cư, thành làng, lập xóm ở vùng đất nê địa có tự bao giờ? Câu hỏi này được một thông tin lý thú phần nào giải đáp, đó là việc Bảo tàng Cà Mau phát hiện ra di vật xưa, đó là Sắc thần đình Viên An. Theo thông tin điền dã, ghi lại lời ông Nguyễn Văn Quế thì đây là di vật mà gia đình ông được truyền lại từ tổ tiên. Bản tạm dịch Sắc thần có đoạn: “Nay tặng là Quảng Hậu Chính Trực Hựu Thiện Ðôn Nghi Chi Thần, sắc cho huyện Long Xuyên, thôn Viên An giữ đúng điều ấy mà phụng sự cho thần”. Trên nền dấu son đề “Tự Ðức ngũ niên thập nhất nguyệt, nhị thập cửu nhật - tức năm Tự Ðức thứ 5 (1852), tháng 11, ngày 29”.

Như vậy, ít nhất Viên An đã quần cư trước đó rất lâu và được sự thừa nhận của triều đình chính thống từ khoảng năm 1852, con số 200 năm là có thể tin cậy. Cuốn “Cà Mau xưa” của Huỳnh Minh và Nghê Văn Lương dẫn ra các bằng chứng cho thấy, cuối thế kỷ XVII, Mạc Cửu là người có công tụ hội, khẩn hoang vùng đất từ Kiên Giang đến Cà Mau. Ðến năm 1714, Mạc Cửu dâng phần đất này cho chúa Nguyễn và Mạc Thiên Tứ - con Mạc Cửu đã vâng mệnh triều đình để lập ra đạo Long Xuyên. Ðến năm thứ 7 Gia Long (1808) đổi thành huyện Long Xuyên. Thời “Gia Long bôn tẩu”, hàng loạt dấu tích còn ghi lại trên đất Cà Mau như Ao Kho (Phường 7, TP Cà Mau), Ao Ngự (Vua) (Cái Nước), Chắc Băng (Thới Bình), Cạnh Ðền (hay Ðền Công Chúa, giáp ranh giữa huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau và tỉnh Kiên Giang) và cả việc vua Gia Long vì nhớ ơn những người cưu mang lúc “bôn tẩu”, cho dựng đền thờ tưởng nhớ tại Viên An, đây chính là cơ sở để đến thời Tự Ðức, đình Viên An được Sắc thần.

Nhà Nam Bộ học Sơn Nam cho rằng, muốn hiểu đất và người vùng Tây Nam Bộ, không có gì khác ngoài thành tựu khẩn hoang thành công ÐBSCL, trong đó có vùng đất Cà Mau. Ông mô tả, quá trình khẩn hoang của lưu dân từ việc “phát dọn, cày bừa, lập vườn, bảo vệ và tô điểm thiên nhiên”. Tức là con người biết “tri hành” vừa tiếp thu, vận dụng linh hoạt, sáng tạo để thích ứng, thích nghi, từ đó sống hài hoà với tự nhiên, chớ không đặt mình ở vị trí người chủ chinh phục và khai thác. Và ông Sơn Nam cũng chỉ ra một “cái tật lớn”, khiến hậu thế khó mà hình dung được tiền nhân là “làm mà không ghi chép. Làm xong việc thì thôi”.

Ðầm Thị Tường xưa. Ảnh tư liệu

Nói về Cà Mau thời mở đất, thật khó để tìm điểm khởi đầu. Chỉ biết rằng đó là vùng đất mới, cộng đồng cư dân là tập hợp của nhiều gốc gác miền Trung, miền Bắc và một số nước khác. Người Cà Mau vẫn hoài nhớ về cội nguồn. Nỗi nhớ thương tạo nên sức mạnh cho họ tiến vào công cuộc khẩn hoang, mở đất. Chẳng phải vì thế mà bao lớp tiền nhân cảm thán: “Từ thuở mang gươm đi mở đất/Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Nói về Cà Mau là vùng đất của sông, biển, với sản vật thiên nhiên độc đáo, trù phú. Nói về Cà Mau là nói về vị thế của một mũi đất mà tạo hoá và lòng người đều đời đời hướng biển. Con người Cà Mau là tổng hoà của chủ thể người Việt trên nền một vùng đất mới, giao lưu, tiếp biến với những nền văn hoá khác.

Qua bao dâu bể, Cà Mau - xứ sở “nước đen” vẫn giữ được hồn cốt, dáng vóc từ thời mở cõi dù đổi thay là điều khó tránh khỏi. Dấu xưa, người xưa trên đất này, còn bao nhiêu lưu luyến. Người hôm nay “ôn cố, tri tân”, để dù đi đâu, khi nhắc về nguồn cội thiêng liêng Cà Mau, ai cũng biết bồi hồi thương nhớ./.

 

Phạm Quốc Rin

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài cuối: Chìa khoá mở rào

Ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo hiện nay được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững trên tất cả các lĩnh vực. Ðối với 2 ngành hàng chủ lực là con tôm và con cua, càng phải đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới, sáng tạo để tạo bước đột phá vượt qua khó khăn, tiến tới phát triển bền vững.

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài 2: Vào chặng đường "địa hình"

Vài năm gần đây, 2 ngành hàng chủ lực của tỉnh đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Ðường đua trên thị trường của tôm, cua Cà Mau đang bước vào chặng “vượt địa hình” do biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả của các quốc gia trong khu vực và quốc tế...

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực

Tôm, cua Cà Mau là 2 ngành hàng chủ lực nâng cao đời sống của đại bộ phận người dân trên địa bàn tỉnh, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của ngành thuỷ sản tỉnh nhà nói riêng, cả nước nói chung. Tuy nhiên, những năm gần đây, 2 mặt hàng này đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, cần có sự thay đổi nhanh, toàn diện để tạo đột phá và phát triển bền vững.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài cuối: Xứng đáng với vai trò, trọng trách

Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, chất lượng hoạt động của HÐND 3 cấp tại Cà Mau đã trở thành quyết tâm, xu thế để đại biểu dân cử, cơ quan dân cử xứng đáng với vai trò, trọng trách được cử tri tin tưởng trao gởi. HÐND các cấp của vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc đang ra sức phụng sự, phấn đấu, cống hiến vì mục tiêu xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài 3: Tiếp xúc cử tri “đúng người, đúng việc, đúng vai”

Ông Nguyễn Tiến Hải, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HÐND tỉnh Cà Mau, từng rất trăn trở: “Tiếp xúc cử tri mà cán bộ nhiều hơn dân thì chưa đúng người, đúng việc, đúng vai. Tình trạng này phải chấn chỉnh ngay, phải để tiếp xúc cử tri là nơi thể hiện quyền làm chủ thật sự, thực chất của Nhân dân; để bà con cử tri đóng góp ý kiến, đề đạt tâm tư, nguyện vọng và hiến kế góp phần vào sự ổn định, phát triển chung của địa phương”.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài 2: Giám sát có trọng tâm, trọng điểm

Giám sát là hoạt động quan trọng của HÐND các cấp, góp phần xác định vị thế, năng lực hoạt động của đại biểu dân cử, cơ quan dân cử, tạo dựng niềm tin và sự tín nhiệm đối với cử tri. Giám sát có trọng tâm, trọng điểm; đa dạng hình thức giám sát, được đo đếm bằng kết quả thực tế, sự đánh giá của cử tri chính là nỗ lực, mục tiêu mà các cấp HÐND tỉnh Cà Mau đang dồn sức thực hiện.

Hành trình của khát vọng và hành động

HÐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân; thay mặt Nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương bằng việc ban hành các nghị quyết tại các kỳ họp trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội, quốc phòng - an ninh và trong phạm vi thẩm quyền theo quy định pháp luật.

“Thắng giặc nghèo” không khó - Bài 2: Linh hoạt với những mô hình hiệu quả

Giai đoạn 2020-2025, Cà Mau có nhiều cách làm chủ động, linh hoạt trong thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững. Nhiều mô hình trồng trọt, chăn nuôi, chuyển đổi nghề hiệu quả, hàng loạt kế hoạch đào tạo lao động tại địa phương đã giúp người dân vượt khó vươn lên, mang tính thực tiễn cao.

“Thắng giặc nghèo” không khó - Bài cuối: Nhìn từ thực tế

Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, đến năm 2022 Trung ương mới bắt đầu phân bổ kế hoạch vốn và ban hành các văn bản hướng dẫn, tổ chức thực hiện. Dù còn gặp nhiều khó khăn về cơ chế, chính sách, các hướng dẫn từ Trung ương chưa đầy đủ, kịp thời nhưng được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HÐND, UBND tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành cấp tỉnh, cùng với sự nỗ lực của địa phương và người dân, các hoạt động thuộc chương trình đã và đang triển khai thực hiện cơ bản đạt mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.

“Thắng giặc nghèo” không khó

Với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền, sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, nhất là sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của người dân, các chính sách giảm nghèo được triển khai thực hiện đồng bộ trên địa bàn tỉnh, mang lại kết quả tích cực. Nhiều hộ nghèo, cận nghèo sau khi thoát nghèo có cuộc sống ổn định, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng lên.