Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, nuôi tôm quảng canh cải tiến (QCCT) ở đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là tại Cà Mau, đứng trước yêu cầu cấp thiết phải đổi mới và nâng cao hiệu quả canh tác. Từ thực tiễn sản xuất và kết quả của nhiều nghiên cứu khoa học, có thể áp dụng tổng hợp một số nhóm giải pháp nhằm tăng năng suất, cải thiện thu nhập và hướng tới phát triển bền vững.
Ngành tôm giữ vị thế hết sức quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh; tổng giá trị sản xuất ngành tôm năm 2024 chiếm khoảng 49% trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp, đạt giá trị khoảng 7.476 tỷ đồng (GRDP theo giá so sánh). 5 tháng đầu năm 2025, theo kết quả rà soát của địa phương, diện tích nuôi tôm QCCT trên địa bàn tỉnh đạt khoảng 166.000 ha/83.807 hộ, năng suất đạt 353 kg/ha/năm, sản lượng ước khoảng 58.128 tấn (đối với tôm sú); tôm khác, năng suất đạt khoảng 104 kg/ha/năm, sản lượng ước khoảng 18.109 tấn.
Theo nhận định của ngành chuyên môn, ngành tôm tỉnh phát triển chưa tương xứng tiềm năng, lợi thế và đối mặt với nhiều thách thức như: cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; tác động của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh; hiệu quả sản xuất thấp và thiếu tính bền vững; chưa hình thành các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn; trình độ tiếp thu và ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất của người dân còn hạn chế... Nguyên nhân chủ yếu do công tác tuyên truyền, vận động người dân chuyển đổi sản xuất, tham gia kinh tế tập thể của các ngành chức năng và tổ chức chính trị - xã hội các cấp chưa thực sự hiệu quả; chưa có các giải pháp mang tính đột phá để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, nâng cao thu nhập của người nuôi tôm; một bộ phận người dân chưa quan tâm ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất...
Việc kết hợp giữa công nghệ sinh học, tri thức bản địa và quản lý cộng đồng là hướng đi tất yếu để đưa nghề nuôi tôm QCCT tại Cà Mau phát triển bền vững.
Từ thực tế trên, Sở Khoa học và Công nghệ đã tìm ra nhiều giải pháp cải thiện hiệu quả nuôi tôm QCCT. Kỹ sư Tiêu Hoàng Pho, Trung tâm Thông tin và Ứng dụng khoa học công nghệ (thuộc Sở Khoa học và Công nghệ), chia sẻ: “Trong mô hình QCCT, đặc biệt không sử dụng thức ăn công nghiệp, nguồn thức ăn tự nhiên chính là “chìa khoá vàng”. Các nhóm sinh vật như: tảo silic, luân trùng, copepoda, giun nhiều tơ và mảnh vụn hữu cơ đóng vai trò quan trọng giúp tôm phát triển ổn định. Việc giữ cho vuông nuôi cân bằng sinh thái, giàu vi sinh vật và sinh vật đáy sẽ giúp tôm hấp thụ dinh dưỡng tự nhiên tối ưu. Do đó, người nuôi tôm cần duy trì và phát triển hệ sinh thái thức ăn tự nhiên trong vuông nuôi”.
Ngoài ra, cây rong câu là loại thực vật thuỷ sinh quý có khả năng hấp thu dinh dưỡng dư thừa, làm trong nước và tạo môi trường ổn định. Tuy nhiên, một số loại rong xanh thuộc họ Cladophoraceae nếu phát triển quá mức (phủ hơn 50% mặt vuông) sẽ gây mất cân bằng DO, pH, sinh khí độc H₂S và NH₃ khi phân huỷ. Do đó, cần kiểm soát mật độ rong xanh hợp lý, lý tưởng là mức dưới 50% diện tích mặt nước vuông. Người nuôi tôm cần quản lý hiệu quả thực vật thuỷ sinh - đừng để rong “lấn vuông”.
Theo nghiên cứu, các chủng Bacillus spp. bản địa tại Trà Vinh, Bạc Liêu và Cà Mau đã được chứng minh có khả năng phân giải hữu cơ mạnh và ức chế vi khuẩn gây bệnh như Vibrio parahaemolyticus. Việc sản xuất và sử dụng các chế phẩm vi sinh nội địa không chỉ giúp giảm chi phí mà còn tăng hiệu quả kiểm soát dịch bệnh, ổn định môi trường vuông nuôi.
Hiệu quả sản xuất không chỉ phụ thuộc vào kỹ thuật mà còn nằm ở năng lực quản lý của người nuôi. Khả năng lập kế hoạch, quản lý tài chính, tiếp cận thị trường và ra quyết định kịp thời là những yếu tố giúp gia tăng lợi nhuận rõ rệt. Các chương trình đào tạo, tập huấn và cố vấn kỹ thuật cho hộ nuôi là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
Nuôi tôm - cua kết hợp đang là hướng đi bền vững tại nhiều địa phương.
Mô hình nuôi kết hợp đang cho hiệu quả cao. Hiện nhiều hộ dân đang nuôi tôm sú kết hợp với cua biển, đây là mô hình sinh thái - kinh tế nổi bật tại vùng đất mũi. Nghiên cứu cho thấy lợi nhuận có thể đạt tới 91,3 triệu đồng/ha/năm, với tỷ suất lợi nhuận gấp 3,7 lần chi phí đầu tư. Mô hình này đặc biệt phù hợp với vùng triều, có thể tái tạo nhanh môi trường và tận dụng hiệu quả nguồn thức ăn tự nhiên trong vuông. Chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, thay vì chỉ thay đổi thời vụ, các hộ nuôi cần chú trọng ứng dụng kỹ thuật thích ứng: chọn giống chịu mặn - chịu nhiệt, quản lý độ mặn, duy trì pH ổn định và sử dụng công nghệ theo dõi chất lượng nước trong vuông. Theo các khảo sát vùng trọng điểm tại Cà Mau cho thấy, nhóm hộ áp dụng đồng bộ giải pháp kỹ thuật thường ghi nhận lợi nhuận cao hơn.
Việc kết hợp giữa công nghệ sinh học, tri thức bản địa và quản lý cộng đồng là hướng đi tất yếu để đưa nghề nuôi tôm QCCT tại Cà Mau phát triển bền vững. Từ đó, không chỉ gia tăng hiệu quả kinh tế mà còn góp phần bảo tồn hệ sinh thái rừng ngập mặn, tạo nền tảng cho các nhãn hiệu chứng nhận, truy xuất nguồn gốc và tiếp cận thị trường quốc tế.
“Cải thiện hiệu quả mô hình nuôi tôm quảng canh không thể chỉ trông chờ vào một giải pháp đơn lẻ, mà là sự tích hợp giữa sinh thái học, kinh tế học và xã hội học. Với tầm nhìn xa và hành động cụ thể, Cà Mau hoàn toàn có thể trở thành hình mẫu của mô hình nuôi tôm sinh thái hiệu quả cao trong khu vực”, ông Pho nhấn mạnh./.
Hoàng Pho - Kim Cương