ĐT: 0939.923988
Thứ hai, 11-11-24 03:52:00
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Cháy lòng mùa khát

Báo Cà Mau (CMO) Mùa này, khi những con kinh, ao đìa đã bắt đầu cạn thì không những cây cối khát nước, mà nhiều vùng, con người cũng đang khắc khoải gồng mình vì thiếu nước. Đầu mùa hạn năm nay, khi truyền thông đưa tin, Nhà nước vừa đầu tư trạm cấp nước lớn cho người dân vùng Tân Bằng - Biển Bạch, những tưởng chuyện thiếu nước sẽ không còn. Thế nhưng không phải vậy, hằng ngày, người dân nhiều vùng vẫn phải đi mua từng thùng nước, vì Nhà nước không có đủ vốn để đầu tư nước sạch đến từng nhà, từng ngõ. Và chẳng lẽ không có phương cách nào khi người dân qua thời chạy ăn lại đến thời… chạy nước?

Bài 1:

Khắc khoải trong cơn khát

Về vùng Tân Bằng- Biển Bạch Cà Mau nghe câu hát xưa bỗng chạnh lòng. Dù bây giờ đường đi không còn xa xôi, cách trở, nhưng cuộc sống người dân nơi đây vẫn còn loay hoay vì chén cơm manh áo. Những cánh đồng toàn là năn, kinh rạch đỏ ngầu. Dọc theo con sông Trẹm, người dân nơi đây vẫn từng ngày chạy… nước.

Chừng 10 năm trở lại đây, tháng Tư ở vùng Biển Bạch, thứ quý nhất trong nhà vẫn là nước. Thiếu cơm, thiếu gạo cũng không lo bằng thiếu nước. Ngày nào cũng thấy bà con lội ra đầu kinh đón ghe chở nước chạy ngang để đổi.

Chạy… nước từng ngày

Trong cơn đại hạn năm 2015, xã Biển Bạch có hơn 2.300 ha lúa bị thiệt hại. Những cánh đồng như rực lửa, giọt mồ hôi chưa chạm đất đã bốc hơi hết.

Nắng chang chang, ngồi trong nhà mặc quần đùi, cởi trần, ngó ra miếng vuông phía sau nhà, anh Nguyễn Văn Quắn, ấp Thanh Tùng, xã Biển Bạch, thở dài: “Hai năm nay có cấy được cây lúa nào đâu. Tôm vẫn thả giống đều đều mà đặt lú thì không thấy con nào. Đi làm mướn đấp đổi qua ngày còn khó, vậy mà phải gánh thêm tiền mua nước. Một lu nước đổi ba chục ngàn, xài nhín nhút cũng không được một tuần”.

“Bà con sống ở tuyến kinh 500 của xã Biển Bạch này hơn chục năm nay năm nào cũng phải đổi nước xài. Trong này đã không có điện, không có đường thì còn chấp nhận được, chứ không có nước nữa thì sao dân sống nổi”, anh Quắn thở dài.

Tuyến kinh 500 của xã Biển Bạch dài khoảng 11 km vẫn chưa có đường ống dẫn nước về.

Tuyến kinh 500 dài gần 11 km, cắt ngang kinh 21, song song với sông Trẹm, đi qua các Ấp 11, ấp Hà Phức Ứng, Ấp 18 và ấp Thanh Tùng của xã Biển Bạch. Ở tuyến kinh này, nhà nào cũng có cây nước, nhưng không có nước của cây nào xài được, nước chát ngấm làm nghẹn cả cổ họng.

Vợ chồng anh Phạm Văn Lành, chị Dương Thị Nhung thuộc diện hộ nghèo mà “chơi sang” nhất xóm, hỏi vay hơn 20 triệu đồng để xây chuồng nuôi gần 50 con cá sấu. Người còn không có nước xài, vậy mà đổi nước để nuôi cá sấu. Ai cũng lắc đầu ngao ngán, nói vợ chồng anh chơi ngông.

Không ngông sao được, mấy công vuông không có con tôm, ngày thì anh đi đốn keo lai mướn cho người ta bên Khánh Thuận, chị ở nhà hai nách hai con nhỏ, không đi làm ăn xa được. Biết làm gì cho đỡ khổ, vợ chồng anh mới bạo gan mượn tiền xây chuồng nuôi cá sấu. Ai dè, nuôi rồi còn khổ hơn. Mỗi lần thay cũng hơn 2 lu nước, hết sáu chục ngàn đồng; chừng chục ngày mới thay nước một lần cho đỡ tốn, vậy mà cũng có thấm tháp vào đâu.

Chị Nhung ngậm ngùi: “Năm ngoái, nghe nói Nhà nước xây trạm cấp nước gì đó lớn lắm, kéo đường nước bên Tân Bằng về tới xã Biển Bạch luôn. Tưởng trong này mười mấy năm thiếu nước cũng sắp được có nước xài nên vợ chồng tui mới nuôi cá sấu để có thêm thu nhập. Ai dè, đến giờ, ở ngoài đầu kinh 21 thì có đường ống nước cho dân xài, còn trong này thì không. Đến giờ vẫn đổi nước để xài chớ muốn xài thì dân phải tự kéo đường ống nhỏ vô nữa, cũng hơn 5–6 triệu đồng. Dân trong này ai cũng nghèo, số tiền lớn vậy sao có mà làm”.

Đi dọc theo các tuyến từ kinh 10 đến kinh 16, hơn 2 năm nay, không nhà nào sạ được một công đất. Hơn 40 hộ dân ở tuyến kinh 14, ấp Trương Thoại, xã Biển Bạch cũng trong cảnh tương tự.

Lúc vợ chồng anh Đỗ Hoàng Anh, chị Mai Thị Tốt lấy nhau là đã gánh từng thùng nước về để làm đám cưới. Bây giờ, đứa con gái lớn đã 7 tuổi, mỗi lần nhà gần hết nước xài, phải túc trực dưới bến đón ghe chở nước để đổi. Cất nhà ở đậu trên nền đất của anh trai, được 5 công đất sau nhà, mỗi năm làm ăn tiện tặn cũng không đủ ăn, nên vợ chồng anh chị được cấp cuốn sổ hộ nghèo. Nhà chỉ có 1 cái lu để đổi nước, 3 lu còn lại đựng nước mưa uống qua hết mùa hạn.

Anh Đỗ Hoàng Anh dở lú không có con tôm nào.

 

Vợ chồng anh Đỗ Hoàng Anh, chị Mai Thị Tốt chỉ có 1 cái lu dùng để đổi nước sử dụng.

Chị Tốt chua chát: “Một năm được mấy tháng mùa mưa là không lo khát, tranh thủ đi làm kiếm tiền để dành mấy tháng mùa hạn đổi nước”. Mấy đứa con nít cũng biết chuyện, nên không dám vọc nước. “Nước đổi mắc tiền lắm, để dành uống, không thôi là chết khát, mẹ cha con dặn vậy đó”, thằng nhỏ 5 tuổi con chị Tốt nói gọn hơ.

Ước mong bình dị

Gần 100 hộ dân kinh 10 của Ấp 11 và kinh 11 của ấp Hà Phúc Ứng, xã Biển Bạch trái tuyến với đường ống nên cũng chỉ biết nhìn dân bên kia kinh có nước xài. Bên này thì vẫn chờ ghe đổi nước.

Có đến đây mới thấy được “sự hà tiện” của người dân vùng này. Cựu chiến binh Trương Văn Phương sống ở mảnh đất này gần một đời người, đến giờ vẫn thấy thiên nhiên là một thử thách lớn. Ông Phương trầm ngâm: “Lúc mới chuyển dịch sang một vụ lúa, một vụ tôm thì đỡ lắm, mấy năm sau thì còn dư vài chục giạ lúa. Hai năm trở lại đây thì không cấy lúa được nữa. Độ mặn 4 – 5 phần ngàn, thì cây lúa nào mà sống nổi. Giờ bên kia kinh có đường ống nước từ Tân Bằng về mà bên đây chưa có, vẫn đổi nước như mười mấy năm trước. Có điều, giờ đổi nước khỏe hơn. Không phải xách từng can lên đổ vô lu mà dưới ghe có ống kéo lên đây, chạy máy là bơm lên. Chừng 4 – 5 phút là đầy lu”.

Ông Huỳnh Minh Phước ở ấp Thanh Tùng, làm nghề đổi nước gần 2 năm nay. Ông làm nghề này từ đợt hạn hán, xâm mặn năm 2015. Gần 60 tuổi, ông Phước cũng từng gánh nước mười mấy năm trời. Ông may mắn, cả xóm chỉ có nhà ông khoan được giếng nước ngọt. Vậy là ông tận dụng nước ngọt “trời cho” rồi mua ghe, mua máy, mua ống hết gần 60 triệu đồng để làm nghề đổi nước.

Hai vợ chồng ông chạy chiếc ghe hết kinh này qua kinh khác, “mê cung” xứ này ông thuộc như lòng bàn tay. “Khi nào xăng dầu lên giá thì nước cũng lên giá, năm ngoái có 25 ngàn đồng một lu, năm nay lên 30 ngàn. Hai vợ chồng một ngày kiếm lời cũng được hơn 200 trăm ngàn đồng. Ban đầu, nhiều người nói làm nghề này thất đức lắm, nước xài mà đem mua, đem bán. Dần rồi họ mới hiểu mình, có khi còn cảm ơn mình, vì mình không chạy ghe đi đổi nước cho bà con thì bà con phải tự chạy xuồng có khi mười mấy cây số qua Tân Bằng để đổi. Thêm giờ có ống nước kéo từ dưới ghe lên bơm vô lu, bà con khỏi phải xách từng can. Làm nghề này sống cũng được, nhưng tui không thấy ham chút nào, muốn nghỉ làm đã lâu…”.

Chạy ra bật công tắc bơm nước xuống ghe, ông Phước tiếp: “Khi nào tui nghỉ làm nghề này là lúc đó dân có nước xài hết rồi. Bỏ nghề mà thấy vui trong bụng. Chớ còn đổi nước là dân còn khát. Không làm nghề này thì làm nghề khác kiếm sống, chứ bà con nghèo một năm lo bữa ăn còn không đủ no, phải gánh thêm cả triệu tiền đổi nước, thì biết bao giờ họ mới thoát nghèo được”.

Đi ngang kinh 9 xã Tân Bằng, người ta thấy công trình cấp nước khang trang hiện lên sừng sững. Những ống nước dẫn về khắp xóm, niềm vui của người dân cũng vỡ òa theo dòng nước mát. Nhưng liệu niềm vui ấy đã trọn vẹn?

Bài 2: Nước về đất khát

Bài 3: Khi người dân làm cấp nước

Phóng sự của Thảo Mơ

Ông Nguyễn Hạnh Phúc, Giám đốc Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Cà Mau, cho biết, công trình cấp nước tập trung nông thôn liên xã Biển Bạch – Tân Bằng với tổng kinh phí hơn 30 tỷ đồng, là công trình có quy mô lớn nhất từ trước đến nay trên địa bàn tỉnh. Công trình hoạt động với công suất 60 m3 nước/giờ, tương đương 1.440 m3 nước/ngày đêm. Tổng chiều dài tuyến ống 75.000 mét, phục vụ nước sinh hoạt cho 2.800 hộ dân hai xã Biển Bạch và Tân Bằng. Do quy mô như thế nên chỉ cấp được 1 tuyến. Hiện một số tuyến không nằm trong thiết kế của dự án nên vẫn chưa có đường ống chính đấu nối để người dân có nước sử dụng. Vì vậy, giải pháp trước mắt là sẽ lắp đặt đồng hồ phía bên cùng tuyến cho bà con và bà con sẽ tự gắn đường ống nhỏ nối qua nhà phía bên trái tuyến để sử dụng.

 

Tô thắm vườn hoa tử tế

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nói, xã hội ta có rất nhiều những tấm gương người tốt, việc tốt. Họ có mặt khắp nơi, đó là những bông hoa đẹp trong rừng hoa đẹp. Ðiều đó được minh chứng ở Cà Mau, nơi tình đất - tình người bền chặt thuỷ chung, sâu nặng nghĩa tình. Trong hành trình phát triển quê hương, bằng những việc làm trượng nghĩa, người Cà Mau đã tô thắm thêm vườn hoa tử tế, làm lay động bao trái tim và lan toả giá trị sống tốt đẹp.

Cửa Lớn mở tương lai

Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài cuối: Bàn về giải pháp

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ người hoạt động ở ấp, khóm kế cận ở Cà Mau đầy sinh động, với nhiều cách làm hay, kinh nghiệm hữu ích. Bằng việc kết nối, đảm bảo tính kế thừa để phát huy tối đa những ưu điểm, bổ trợ những hạn chế giữa các thế hệ; đội ngũ này vừa ổn định vừa có những điểm sáng đột phá gắn với xu hướng trẻ hoá, chuẩn hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển khởi sắc của tỉnh nhà cũng đang tạo ra môi trường tốt để nhiều người trẻ chọn trở về gắn bó lập thân, lập nghiệp.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài 2: Những tín hiệu tích cực

Năng nổ, nhiệt huyết, nhạy bén và dám nghĩ, dám làm đang là những ghi nhận, đánh giá của các cấp uỷ đảng, chính quyền và Nhân dân khi nói về những người trẻ tuổi hoạt động ở ấp, khóm. Không khí tươi mới với nguồn năng lượng tích cực của đội ngũ trẻ đã thực sự trở thành điểm sáng ở nhiều địa bàn ấp, khóm ở Cà Mau trong hành trình phát triển. Ðó cũng là gợi ý hữu ích để Cà Mau tiếp tục công việc chuẩn hoá, trẻ hoá; tăng cường chất lượng và xây dựng đội ngũ kế thừa đảm đương nhiệm vụ ở khóm, ấp trong bối cảnh hiện nay.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng

Thực tế đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở ấp, khóm trong việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Ðây là cánh tay nối dài của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp, sâu sát nhất với Nhân dân. Mọi chuyển động của cấp “cơ sở của cơ sở” sẽ quyết định đến việc thành hay bại của một quyết sách, một chủ trương, một phong trào... gắn với nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của từng địa phương.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.

Thông tư 20 - Từ quy định đến thực tiễn - Bài cuối: Loay hoay tìm giải pháp

Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 (Chương trình) mở ra nhiều cơ hội mới, nâng cao chất lượng dạy và học, kéo gần khoảng cách giáo dục nông thôn và thành thị. Tuy nhiên, khi áp dụng Chương trình và thực hiện Thông tư số 20/2023/TT-BGDÐT (Thông tư 20) của Bộ Giáo dục và Ðào tạo (GD&ÐT), nhiều trường vẫn còn loay hoay tìm giải pháp thực hiện.

Thông tư 20 - Từ quy định đến thực tiễn

Thông tư 20/2023/TT-BGDÐT của Bộ Giáo dục và Ðào tạo (GD&ÐT) có hiệu lực thi hành vào ngày 16/12/2023. Thông tư hướng dẫn về vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục phổ thông và các trường chuyên biệt công lập, nhằm chuẩn hoá các điều kiện từ cơ sở vật chất, số lượng giáo viên, nhân viên cho công cuộc đổi mới toàn diện theo Chương trình Giáo dục phổ thông mới 2018.