ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 24-11-24 11:36:02
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Cháy lòng mùa khát

Báo Cà Mau (CMO) Về U Minh mùa này, cái nắng tháng Tư cháy da cháy thịt, dòng sông đặc quánh màu phèn. Lâu lâu có cơn gió lùa vào xua đi cái hanh khô của một vùng đất khát.

Bài 2:

Nước về đất khát

Dưới cái nắng như đổ lửa vậy mà khuôn mặt chị Lê Mỹ Lệ (Ấp 20, xã Khánh Thuận, huyện U Minh) vẫn tươi rói: “Năm nay không lo khát nữa rồi! Nước sạch về tới đây, bà con tụi tui mừng hết sức. Vặn van là có nước sạch đem vô nấu cơm liền à, khỏi phải chở từng thùng nước như lúc trước nữa”.

Ở xứ “nước quý hơn vàng”

Giờ nước trên con kinh trong lâm phần đã giựt mé. Trưởng Ấp 13, xã Nguyễn Phích, giới thiệu, hộ anh Trần Văn Tèo là một trong những hộ nghèo mà còn kéo được ống xài nước. Anh và vợ đi xóm, thằng con ở nhà không dám mở công tắc điện hứng nước, xách xô chạy ra cây nước trước nhà bơm cót két.

Con trai anh Trần Văn Tèo nhọc nhằn bơm nước từ cây nước cũ.

“Cây nước được Ban Từ thiện - Xã hội Phật giáo tỉnh Cà Mau vận động tài trợ cho những hộ nghèo, gia đình chính sách có hoàn cảnh khó khăn, trị giá 3,7 triệu đồng, mỗi gia đình đóng góp 300 ngàn đồng. Cây nước này xài tắm giặt thì được, chứ còn nấu nướng thì đi đổi. Mà chuyện đi lại của người dân trong rừng là cả vấn đề, giờ có nước thì khỏe rồi. Ở đây đa số nhà chỉ còn người già với con nít, thanh niên đi xứ khác mần ăn hết. Làm lúa năm rồi không đủ ăn, giữ nước giữ rừng thì ngập lúa chết. Ấp 13 có 119 hộ thì có đến 39 hộ nghèo, 10 hộ cận nghèo”, ông Trưởng ấp phân trần.

Hoàn cảnh gia đình anh Phạm Minh Đảm, Ấp 10, xã Nguyễn Phích cũng không khá hơn. Được cấp sổ hộ nghèo, anh vay tiền mua 4 con heo giống, được chừng nửa tháng thì chết hết 3 con. Anh Đảm nói: “Ở xứ rừng, mùa này không làm ăn gì được. Nuôi trồng cái gì cũng thất bại, bám rừng riết không biết bao giờ mới thoát nghèo. Trước đây thiếu nước, thiếu điện còn khổ hơn nữa. Nhờ xã vận động hỗ trợ cây nước, gắn thêm cái mô tơ xài, vợ chồng tui mừng hết biết”.

Ông Bùi Văn Tính, Phó trưởng Ấp 10, tiếp lời: “Bây giờ khổ thì còn nhiều người khổ, nhưng ở đây là lâm phần, làm sao để đảm bảo cho dân nghèo yên tâm sinh sống, bám rừng, bám đất, không bỏ đi xứ khác là quan trọng nhất.”

11 giờ trưa, tôi ghé nhà chị Lê Mỹ Lệ. Nhà trước lợp tol nóng rát mặt, chị luýnh quýnh xách xô chạy ra sân, mở vòi nước hứng đầy xô cho tôi rửa mặt. Chị chỉ tay về phía đặt bồn nước nói: “Giờ xài nước trong bồn bơm lên không à! Sạch lắm, không có đục đục như nước giếng khoan. Lúc trước nhà có khách mới xài nước giếng, không thì xài nước dưới mương”.

Anh Huỳnh Chí Tâm, hàng xóm chị Lệ, tạt qua nhà. Nói chuyện chưa được vài câu, cái nóng làm cho cục nước đá trong ca tan đi phân nửa. Anh Tâm thuộc diện hộ nghèo trong ấp, cũng chỉ biết bám vào rừng U Minh mà sống. Anh Tâm kể: “4 năm trước tui về đây, không có đất đai gì hết. Ông anh họ cho miếng đất cất nhà, trồng rừng sinh sống. Tưởng về đây sẽ dễ sống, trên bờ thì cây cối, dưới sông thì có cá. Ai dè, về giữa rừng, nước mênh mông mà phải đi mua từng thùng nước. Nước ao, nước mương toàn là phèn đỏ ngầu, đâu có uống, nấu cơm gì được, chỉ có tắm giặt, rồi lên xả lại một hai ca nước phông tên. Mùa mưa thì hứng nước mưa xài, mùa hạn thì qua nhà nào có giếng nước để mua nước, có khi 5 ngàn, có khi người ta cho vài thùng xách về xài”.

Người dân ven Quốc lộ 22 (đường xuyên Á) thuộc Ấp 18, xã Biển Bạch tự gắn đường ống dẫn nước để sử dụng.

Nói xong, anh như vừa được trút đi những uất nghẹn trong lòng. Chị Lệ ngậm ngùi: “Thấy mấy đứa nhỏ tội nghiệp, mới vô học được phát đồng phục, đi học không được nửa năm là bộ đồ ngả màu, cũ mèm, vì giặt đồ dưới mương nước phèn không mà. Nước giếng ở đây cũng không được trong, mà đục đục, chua chua, đem nấu nướng là tụi nhỏ đau bụng, phải đi đổi nước bình về uống, nấu ăn. Nhà tui đỡ hơn mấy nhà khác là còn khoan được cây nước mà xài”.

Ghé nhà ông Lê Công Sáu, (Phó trưởng Ấp 17, xã Khánh Thuận), anh cán bộ xã hỏi xin củ bán đem về trồng, ông Sáu cười khà khà: “Nắng này người ta còn muốn héo nữa, lấy củ bán đâu ra cho trồng. Mà có đi nữa, trồng vài ngày cũng chết queo à!”.

Đi ra sau nhà, tôi mới tin lời ông Sáu nói là thật. Cây cối quay quắt, đèo đuột, mấy cây keo lai trồng quanh nhà cố rút bộ rễ khỏi cái mương đặc phèn. Đoạn đường từ Ấp 20 đến Ấp 17, những hộ nuôi heo, gà, vịt đếm trên đầu ngón tay.

Ông Sáu nói thêm: “Năm rồi được tỉnh đầu tư xây dựng giếng khoan, cấp nước cho hơn 100 hộ dân ấp này và khoảng 20 hộ dân Ấp 18. Chưa có đồng hồ điện tại trạm nên kéo điện trong nhà tui ra để hoạt động. Trong rừng điều kiện khó khăn nên chưa có làm đường ống kéo đến từng nhà mà bà con đi xuồng đến đây chở nước về xài. Có nước sạch về tận đây được như vầy là bà con mừng lắm rồi. Trạm hoạt động từ sau Tết tới giờ, mỗi tháng chưa được một trăm rưỡi ngàn tiền điện”.

Dòng nước mát

Xế chiều, học sinh ra chơi giữa giờ, mấy đứa cầm bông bảng chạy ra vòi nước giặt. Nói giặt vậy chứ thật ra là tụi nhỏ đang vọc nước vì… mê nước.

Từ lúc có trạm cấp nước, kéo đường ống về đến trường, người dân Ấp 11 không còn thấy cô Phan Thị Thu Hà (giáo viên thư viện trường Tiểu học Trịnh Minh Hưởng) đi chở từng thùng nước về trường như trước đây nữa.

Học sinh trường Tiểu học Trịnh Minh Hưởng, xã Nguyễn Phích có nước sạch để sử dụng là 1 niềm vui lớn.

Cô Hà tâm sự: “Khoảng 5 năm trước, tôi phải chạy xe gần 4 km đến kinh 93, Ấp 15, xã Khánh Lâm để xin nước chở về cho các em học sinh sử dụng, vì chỉ bên đó mới có trạm cấp nước. Còn nước ao ở trường bị phèn nặng quá, không sử dụng được. Sau đó, bên Ấp 17, xã Khánh An cũng có trạm thì tôi qua đó xin gần hơn. Năm rồi thì Ấp 11, xã Nguyễn Phích mới xây được trạm cấp nước nên nhà trường và các em học sinh rất phấn khởi. Phụ huynh các em cũng yên tâm hơn khi con mình có nước sạch để sử dụng”.

Học sinh trường Mầm non Vành Khuyên đã có nước sạch sử dụng.

Bà Lâm Thị Chín (Út Chín) đang xả nước tắm cho cháu nội, thấy có người lạ, thằng nhỏ cuống cuồng chạy vô nhà. Bà Út Chín là đồng bào Khmer, một trong những hộ đặc biệt khó khăn của ấp. Bà Út Chín xúc động: “Năm trước thằng nhỏ còn tắm nước ao rồi xả lại ca nước sạch. Nước đó lúc thì đi mua, lúc thì người ta cho rồi chở về. Sau Tết, có đường ống nước kéo về tới nhà, tui với bà con ở đây mừng hết biết”.

Mừng là vậy, nhưng bà Út Chín vẫn thấy lo. Lo vì giá nước khá cao so với điều kiện kinh tế gia đình của những hộ nghèo như bà. Theo quy định, giá nước sạch do UBND tỉnh ban hành thì thì hộ nghèo sử dụng nước từ 1-10 m3 đầu có giá 4.400 đồng/m3, trên 10 m3 tiếp theo có giá 6.400 đồng/m3.

Ông Võ Văn Liêu, Phó chủ tịch UBND xã Nguyễn Phích thông tin, xã Nguyễn Phích là xã có diện tích rừng được giao khoán lớn nhất trong lâm phần. Tuy nhiên, đời sống của đa phần người dân trong lầm phần còn gặp nhiều khó khăn, nhất là vấn đề thiếu nước sinh hoạt. Toàn xã có 833 hộ nghèo, chiếm 17,8%. Năm 2016, công trình cấp nước tại Ấp 11 do tỉnh đầu tư xây dựng với tổng kinh phí 723 triệu đồng, đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho hơn 100 hộ dân trong phạm vi 3 km. Tuy nhiên, giá nước đối với hộ nghèo còn khá cao, trong khi nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng, để sinh hoạt và tăng gia sản xuất. Vì vậy, hiện địa phương đang tính toán lại để có giải pháp tốt nhất cho những hộ nghèo, chính sách có hoàn cảnh khó khăn được sử dụng nước sạch với mức giá hợp lý. Đồng thời, kêu gọi xã hội hóa cấp nước, góp phần tăng tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch ở nông thôn, nhằm thực hiện hóa tiêu chí nước sạch, vệ sinh môi trường trong xây dựng nông thôn mới ở địa phương.

Những công trình cấp nước cho người dân đứng sừng sững giữa U Minh bạt ngàn. Nó là niềm hy vọng giúp người dân gắn bó với chính mảnh đất quê hương mình.

Bài 1: Khắc khoải trong cơn khát

Bài 3: Khi người dân làm cấp nước

Phóng sự của Thảo Mơ

Ông Trần Công Mười, Phó chủ tịch UBND xã Khánh Thuận bộc bạch: “Trước đây, ba ấp 17, 19, 20 có nhiều cái không: không đường, không điện, không trạm y tế, không nước sinh hoạt, không chợ búa. Gần 500 hộ dân thiếu nước do không khoan được cây nước, một phần là do nước nhiễm phèn, không sử dụng được, một phần là do người dân quá khó khăn, không có điều kiện để khoan cây nước, nên các hộ dân phải mua nước sinh hoạt ở tận xã Tân Bằng và Biển Bạch, huyện Thới Bình rồi chở xuồng máy về sử dụng. Vừa rồi, UBND tỉnh hỗ trợ 3 ấp này mỗi ấp 1 trạm bơm nước với bồn chứa 5.000 lít, tổng trị giá hơn 1,5 tỷ đồng, giúp người dân giải được cơn khát mùa hạn này.

 

Ông Quách Văn Hợp, Chủ tịch UBND xã Khánh An, huyện U Minh, cho biết: “Công trình cấp nước tại chợ Vàm Cái Tàu đang đẩy nhanh tiến độ hoàn thành. Công trình gồm 8 hạng mục chính là nhà trạm, hồ chứa 200 m3, bể lắng bùn, giếng khoan sâu 250m, mạng ống phân phối 9,6 km; cụm xử lý, sân đường, mương thoát nước với tổng kinh phí khoảng 7 tỷ đồng, đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho hơn 700 hộ dân tại khu vực này.

 

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài cuối: Thầm lặng việc thiện nguyện

Gương mặt đôn hậu, nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi là điều dễ tạo thiện cảm với bất cứ ai khi gặp cô Phạm Thị Ngọc Thảo, giáo viên Trường Tiểu học Phường 6/2, TP Cà Mau. Nhiều năm duy trì “Tủ bánh mì yêu thương”, lặng thầm trao hàng trăm món quà thiết thực tới những hoàn cảnh kém may mắn, cô Thảo cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sẻ chia.

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài 2: Người gieo hạnh phúc

Mỗi ngày trôi qua, trên khắp quê hương Cà Mau xuất hiện nhiều tấm gương bình dị mà cao quý. Ðó là câu chuyện của người phụ nữ vượt qua nỗi đau của bản thân để dìu dắt những người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, là câu chuyện của những cựu chiến binh giàu nghĩa cử cao đẹp... Họ thầm lặng đóng góp cho đời, gieo hạt giống yêu thương, điểm tô cho cuộc sống thêm những gam màu tươi sáng.

Tô thắm vườn hoa tử tế

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nói, xã hội ta có rất nhiều những tấm gương người tốt, việc tốt. Họ có mặt khắp nơi, đó là những bông hoa đẹp trong rừng hoa đẹp. Ðiều đó được minh chứng ở Cà Mau, nơi tình đất - tình người bền chặt thuỷ chung, sâu nặng nghĩa tình. Trong hành trình phát triển quê hương, bằng những việc làm trượng nghĩa, người Cà Mau đã tô thắm thêm vườn hoa tử tế, làm lay động bao trái tim và lan toả giá trị sống tốt đẹp.

Cửa Lớn mở tương lai

Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài cuối: Bàn về giải pháp

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ người hoạt động ở ấp, khóm kế cận ở Cà Mau đầy sinh động, với nhiều cách làm hay, kinh nghiệm hữu ích. Bằng việc kết nối, đảm bảo tính kế thừa để phát huy tối đa những ưu điểm, bổ trợ những hạn chế giữa các thế hệ; đội ngũ này vừa ổn định vừa có những điểm sáng đột phá gắn với xu hướng trẻ hoá, chuẩn hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển khởi sắc của tỉnh nhà cũng đang tạo ra môi trường tốt để nhiều người trẻ chọn trở về gắn bó lập thân, lập nghiệp.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài 2: Những tín hiệu tích cực

Năng nổ, nhiệt huyết, nhạy bén và dám nghĩ, dám làm đang là những ghi nhận, đánh giá của các cấp uỷ đảng, chính quyền và Nhân dân khi nói về những người trẻ tuổi hoạt động ở ấp, khóm. Không khí tươi mới với nguồn năng lượng tích cực của đội ngũ trẻ đã thực sự trở thành điểm sáng ở nhiều địa bàn ấp, khóm ở Cà Mau trong hành trình phát triển. Ðó cũng là gợi ý hữu ích để Cà Mau tiếp tục công việc chuẩn hoá, trẻ hoá; tăng cường chất lượng và xây dựng đội ngũ kế thừa đảm đương nhiệm vụ ở khóm, ấp trong bối cảnh hiện nay.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng

Thực tế đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở ấp, khóm trong việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Ðây là cánh tay nối dài của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp, sâu sát nhất với Nhân dân. Mọi chuyển động của cấp “cơ sở của cơ sở” sẽ quyết định đến việc thành hay bại của một quyết sách, một chủ trương, một phong trào... gắn với nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của từng địa phương.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.