ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 8-7-25 00:42:07
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Cháy lòng mùa khát

Báo Cà Mau (CMO) Về U Minh mùa này, cái nắng tháng Tư cháy da cháy thịt, dòng sông đặc quánh màu phèn. Lâu lâu có cơn gió lùa vào xua đi cái hanh khô của một vùng đất khát.

Bài 2:

Nước về đất khát

Dưới cái nắng như đổ lửa vậy mà khuôn mặt chị Lê Mỹ Lệ (Ấp 20, xã Khánh Thuận, huyện U Minh) vẫn tươi rói: “Năm nay không lo khát nữa rồi! Nước sạch về tới đây, bà con tụi tui mừng hết sức. Vặn van là có nước sạch đem vô nấu cơm liền à, khỏi phải chở từng thùng nước như lúc trước nữa”.

Ở xứ “nước quý hơn vàng”

Giờ nước trên con kinh trong lâm phần đã giựt mé. Trưởng Ấp 13, xã Nguyễn Phích, giới thiệu, hộ anh Trần Văn Tèo là một trong những hộ nghèo mà còn kéo được ống xài nước. Anh và vợ đi xóm, thằng con ở nhà không dám mở công tắc điện hứng nước, xách xô chạy ra cây nước trước nhà bơm cót két.

Con trai anh Trần Văn Tèo nhọc nhằn bơm nước từ cây nước cũ.

“Cây nước được Ban Từ thiện - Xã hội Phật giáo tỉnh Cà Mau vận động tài trợ cho những hộ nghèo, gia đình chính sách có hoàn cảnh khó khăn, trị giá 3,7 triệu đồng, mỗi gia đình đóng góp 300 ngàn đồng. Cây nước này xài tắm giặt thì được, chứ còn nấu nướng thì đi đổi. Mà chuyện đi lại của người dân trong rừng là cả vấn đề, giờ có nước thì khỏe rồi. Ở đây đa số nhà chỉ còn người già với con nít, thanh niên đi xứ khác mần ăn hết. Làm lúa năm rồi không đủ ăn, giữ nước giữ rừng thì ngập lúa chết. Ấp 13 có 119 hộ thì có đến 39 hộ nghèo, 10 hộ cận nghèo”, ông Trưởng ấp phân trần.

Hoàn cảnh gia đình anh Phạm Minh Đảm, Ấp 10, xã Nguyễn Phích cũng không khá hơn. Được cấp sổ hộ nghèo, anh vay tiền mua 4 con heo giống, được chừng nửa tháng thì chết hết 3 con. Anh Đảm nói: “Ở xứ rừng, mùa này không làm ăn gì được. Nuôi trồng cái gì cũng thất bại, bám rừng riết không biết bao giờ mới thoát nghèo. Trước đây thiếu nước, thiếu điện còn khổ hơn nữa. Nhờ xã vận động hỗ trợ cây nước, gắn thêm cái mô tơ xài, vợ chồng tui mừng hết biết”.

Ông Bùi Văn Tính, Phó trưởng Ấp 10, tiếp lời: “Bây giờ khổ thì còn nhiều người khổ, nhưng ở đây là lâm phần, làm sao để đảm bảo cho dân nghèo yên tâm sinh sống, bám rừng, bám đất, không bỏ đi xứ khác là quan trọng nhất.”

11 giờ trưa, tôi ghé nhà chị Lê Mỹ Lệ. Nhà trước lợp tol nóng rát mặt, chị luýnh quýnh xách xô chạy ra sân, mở vòi nước hứng đầy xô cho tôi rửa mặt. Chị chỉ tay về phía đặt bồn nước nói: “Giờ xài nước trong bồn bơm lên không à! Sạch lắm, không có đục đục như nước giếng khoan. Lúc trước nhà có khách mới xài nước giếng, không thì xài nước dưới mương”.

Anh Huỳnh Chí Tâm, hàng xóm chị Lệ, tạt qua nhà. Nói chuyện chưa được vài câu, cái nóng làm cho cục nước đá trong ca tan đi phân nửa. Anh Tâm thuộc diện hộ nghèo trong ấp, cũng chỉ biết bám vào rừng U Minh mà sống. Anh Tâm kể: “4 năm trước tui về đây, không có đất đai gì hết. Ông anh họ cho miếng đất cất nhà, trồng rừng sinh sống. Tưởng về đây sẽ dễ sống, trên bờ thì cây cối, dưới sông thì có cá. Ai dè, về giữa rừng, nước mênh mông mà phải đi mua từng thùng nước. Nước ao, nước mương toàn là phèn đỏ ngầu, đâu có uống, nấu cơm gì được, chỉ có tắm giặt, rồi lên xả lại một hai ca nước phông tên. Mùa mưa thì hứng nước mưa xài, mùa hạn thì qua nhà nào có giếng nước để mua nước, có khi 5 ngàn, có khi người ta cho vài thùng xách về xài”.

Người dân ven Quốc lộ 22 (đường xuyên Á) thuộc Ấp 18, xã Biển Bạch tự gắn đường ống dẫn nước để sử dụng.

Nói xong, anh như vừa được trút đi những uất nghẹn trong lòng. Chị Lệ ngậm ngùi: “Thấy mấy đứa nhỏ tội nghiệp, mới vô học được phát đồng phục, đi học không được nửa năm là bộ đồ ngả màu, cũ mèm, vì giặt đồ dưới mương nước phèn không mà. Nước giếng ở đây cũng không được trong, mà đục đục, chua chua, đem nấu nướng là tụi nhỏ đau bụng, phải đi đổi nước bình về uống, nấu ăn. Nhà tui đỡ hơn mấy nhà khác là còn khoan được cây nước mà xài”.

Ghé nhà ông Lê Công Sáu, (Phó trưởng Ấp 17, xã Khánh Thuận), anh cán bộ xã hỏi xin củ bán đem về trồng, ông Sáu cười khà khà: “Nắng này người ta còn muốn héo nữa, lấy củ bán đâu ra cho trồng. Mà có đi nữa, trồng vài ngày cũng chết queo à!”.

Đi ra sau nhà, tôi mới tin lời ông Sáu nói là thật. Cây cối quay quắt, đèo đuột, mấy cây keo lai trồng quanh nhà cố rút bộ rễ khỏi cái mương đặc phèn. Đoạn đường từ Ấp 20 đến Ấp 17, những hộ nuôi heo, gà, vịt đếm trên đầu ngón tay.

Ông Sáu nói thêm: “Năm rồi được tỉnh đầu tư xây dựng giếng khoan, cấp nước cho hơn 100 hộ dân ấp này và khoảng 20 hộ dân Ấp 18. Chưa có đồng hồ điện tại trạm nên kéo điện trong nhà tui ra để hoạt động. Trong rừng điều kiện khó khăn nên chưa có làm đường ống kéo đến từng nhà mà bà con đi xuồng đến đây chở nước về xài. Có nước sạch về tận đây được như vầy là bà con mừng lắm rồi. Trạm hoạt động từ sau Tết tới giờ, mỗi tháng chưa được một trăm rưỡi ngàn tiền điện”.

Dòng nước mát

Xế chiều, học sinh ra chơi giữa giờ, mấy đứa cầm bông bảng chạy ra vòi nước giặt. Nói giặt vậy chứ thật ra là tụi nhỏ đang vọc nước vì… mê nước.

Từ lúc có trạm cấp nước, kéo đường ống về đến trường, người dân Ấp 11 không còn thấy cô Phan Thị Thu Hà (giáo viên thư viện trường Tiểu học Trịnh Minh Hưởng) đi chở từng thùng nước về trường như trước đây nữa.

Học sinh trường Tiểu học Trịnh Minh Hưởng, xã Nguyễn Phích có nước sạch để sử dụng là 1 niềm vui lớn.

Cô Hà tâm sự: “Khoảng 5 năm trước, tôi phải chạy xe gần 4 km đến kinh 93, Ấp 15, xã Khánh Lâm để xin nước chở về cho các em học sinh sử dụng, vì chỉ bên đó mới có trạm cấp nước. Còn nước ao ở trường bị phèn nặng quá, không sử dụng được. Sau đó, bên Ấp 17, xã Khánh An cũng có trạm thì tôi qua đó xin gần hơn. Năm rồi thì Ấp 11, xã Nguyễn Phích mới xây được trạm cấp nước nên nhà trường và các em học sinh rất phấn khởi. Phụ huynh các em cũng yên tâm hơn khi con mình có nước sạch để sử dụng”.

Học sinh trường Mầm non Vành Khuyên đã có nước sạch sử dụng.

Bà Lâm Thị Chín (Út Chín) đang xả nước tắm cho cháu nội, thấy có người lạ, thằng nhỏ cuống cuồng chạy vô nhà. Bà Út Chín là đồng bào Khmer, một trong những hộ đặc biệt khó khăn của ấp. Bà Út Chín xúc động: “Năm trước thằng nhỏ còn tắm nước ao rồi xả lại ca nước sạch. Nước đó lúc thì đi mua, lúc thì người ta cho rồi chở về. Sau Tết, có đường ống nước kéo về tới nhà, tui với bà con ở đây mừng hết biết”.

Mừng là vậy, nhưng bà Út Chín vẫn thấy lo. Lo vì giá nước khá cao so với điều kiện kinh tế gia đình của những hộ nghèo như bà. Theo quy định, giá nước sạch do UBND tỉnh ban hành thì thì hộ nghèo sử dụng nước từ 1-10 m3 đầu có giá 4.400 đồng/m3, trên 10 m3 tiếp theo có giá 6.400 đồng/m3.

Ông Võ Văn Liêu, Phó chủ tịch UBND xã Nguyễn Phích thông tin, xã Nguyễn Phích là xã có diện tích rừng được giao khoán lớn nhất trong lâm phần. Tuy nhiên, đời sống của đa phần người dân trong lầm phần còn gặp nhiều khó khăn, nhất là vấn đề thiếu nước sinh hoạt. Toàn xã có 833 hộ nghèo, chiếm 17,8%. Năm 2016, công trình cấp nước tại Ấp 11 do tỉnh đầu tư xây dựng với tổng kinh phí 723 triệu đồng, đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho hơn 100 hộ dân trong phạm vi 3 km. Tuy nhiên, giá nước đối với hộ nghèo còn khá cao, trong khi nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng, để sinh hoạt và tăng gia sản xuất. Vì vậy, hiện địa phương đang tính toán lại để có giải pháp tốt nhất cho những hộ nghèo, chính sách có hoàn cảnh khó khăn được sử dụng nước sạch với mức giá hợp lý. Đồng thời, kêu gọi xã hội hóa cấp nước, góp phần tăng tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch ở nông thôn, nhằm thực hiện hóa tiêu chí nước sạch, vệ sinh môi trường trong xây dựng nông thôn mới ở địa phương.

Những công trình cấp nước cho người dân đứng sừng sững giữa U Minh bạt ngàn. Nó là niềm hy vọng giúp người dân gắn bó với chính mảnh đất quê hương mình.

Bài 1: Khắc khoải trong cơn khát

Bài 3: Khi người dân làm cấp nước

Phóng sự của Thảo Mơ

Ông Trần Công Mười, Phó chủ tịch UBND xã Khánh Thuận bộc bạch: “Trước đây, ba ấp 17, 19, 20 có nhiều cái không: không đường, không điện, không trạm y tế, không nước sinh hoạt, không chợ búa. Gần 500 hộ dân thiếu nước do không khoan được cây nước, một phần là do nước nhiễm phèn, không sử dụng được, một phần là do người dân quá khó khăn, không có điều kiện để khoan cây nước, nên các hộ dân phải mua nước sinh hoạt ở tận xã Tân Bằng và Biển Bạch, huyện Thới Bình rồi chở xuồng máy về sử dụng. Vừa rồi, UBND tỉnh hỗ trợ 3 ấp này mỗi ấp 1 trạm bơm nước với bồn chứa 5.000 lít, tổng trị giá hơn 1,5 tỷ đồng, giúp người dân giải được cơn khát mùa hạn này.

 

Ông Quách Văn Hợp, Chủ tịch UBND xã Khánh An, huyện U Minh, cho biết: “Công trình cấp nước tại chợ Vàm Cái Tàu đang đẩy nhanh tiến độ hoàn thành. Công trình gồm 8 hạng mục chính là nhà trạm, hồ chứa 200 m3, bể lắng bùn, giếng khoan sâu 250m, mạng ống phân phối 9,6 km; cụm xử lý, sân đường, mương thoát nước với tổng kinh phí khoảng 7 tỷ đồng, đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho hơn 700 hộ dân tại khu vực này.

 

"Lá chắn thép" nơi cực Nam Tổ quốc - Bài cuối: Dệt nghĩa tình nơi vùng biên

Thắt chặt tình quân - dân, Bộ đội Biên phòng (BÐBP) Cà Mau tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế - xã hội ở các địa bàn biên giới biển, đảo, thường xuyên thực hiện các hoạt động nghĩa tình, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho bà con. Ðiều này góp phần củng cố sức mạnh đại đoàn kết, tạo nên thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

"Lá chắn thép" nơi cực Nam Tổ quốc - Bài 2: Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng

Là lực lượng chủ công trên mặt trận phòng chống các loại tội phạm trên biển, Bộ đội Biên phòng (BÐBP) Cà Mau ngày đêm tuần tra, kiểm soát, kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi xâm phạm chủ quyền, vi phạm pháp luật. Những chiến công liên tiếp trong việc triệt phá các chuyên án, bắt giữ tội phạm đã góp phần giữ vững an ninh trật tự, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế biển.

"Lá chắn thép" nơi cực Nam Tổ quốc

Năm 2025 là năm đặc biệt đối với Bộ đội Biên phòng (BÐBP) Cà Mau khi đánh dấu 50 năm xây dựng, chiến đấu và không ngừng lớn mạnh, trở thành “lá chắn thép” nơi cực Nam Tổ quốc, đảm bảo sự bình yên và vững chắc cho vùng biển, đảo quê hương. Cán bộ, chiến sĩ BÐBP còn là những người bạn, người thân của Nhân dân, cùng chung tay xây dựng thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh, góp phần tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của Bộ đội Cụ Hồ.

Lớn lên từ những chuyến đi

Trong suốt chặng đường theo nghề báo hơn 25 năm, có những lúc áp lực, tưởng chừng sẽ phải dừng lại. Song, khi nhìn lại, tôi thầm cảm ơn và tự hào với những gì mà nghề đã mang lại cho tôi, đó là những chuyến đi, khám phá những vùng đất mới, xa xôi, đặc biệt là những chuyến đi biển, đảo. Chính những hành trình ấy đã tiếp thêm sức mạnh, tình yêu quê hương, đất nước, bùng thêm ngọn lửa nghề trong tim tôi.

Khi ý Ðảng gặp sức dân - Bài cuối: Nâng cao hiệu quả quản trị cộng đồng

Bức tranh toàn cảnh về sự hình thành và những thành công bước đầu của mô hình tổ Nhân dân tự quản (NDTQ) tại Cà Mau, cho thấy một thiết chế đầy tiềm năng trong việc kết nối ý Ðảng với sức mạnh cộng đồng. Tuy nhiên, hành trình xây dựng và phát triển mô hình này không tránh khỏi những “gập ghềnh”, những “nút thắt” cần được tháo gỡ.

Viết báo tết trong chiến khu

Buổi sáng cuối đông năm 1973, bầu trời se lạnh. Chúng tôi ngồi viết báo Tết trong khu vườn dừa của chú Sáu Lân ở ấp Lý Ấn, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

Khi phóng viên địa bàn đồng hành cùng địa phương

Từ thời Báo Minh Hải, phóng viên đã được Toà soạn phân công phụ trách địa bàn để cùng ăn, cùng ở, cùng làm với cơ sở, với bà con, nắm bắt thật sát tình hình địa phương, thực hiện các tin, bài nóng hổi tính thời sự, góp phần và đồng hành cùng với sự ổn định, phát triển của địa bàn phụ trách.

Khi ý Ðảng gặp sức dân

Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân, vì dân”, ở Cà Mau, một mô hình tổ chức xã hội đặc biệt đang âm thầm bén rễ và lan toả sức sống: Tổ Nhân dân tự quản (NDTQ). Thoạt nghe, cụm từ này có vẻ khô khan, mang nặng tính hành chính, nhưng khi đặt chân đến những xóm, ấp nơi mô hình này đang hoạt động, người ta mới cảm nhận được hơi thở của sự tự nguyện, tinh thần đoàn kết và khát vọng làm chủ cuộc sống cộng đồng. Ðây không chỉ là hình thức tập hợp người dân theo địa bàn cư trú, mà sâu xa hơn, nó đang dần khẳng định vai trò như một cầu nối sống động, nơi ý Ðảng được truyền tải một cách gần gũi nhất, hoà quyện với nhu cầu và sức mạnh nội tại của Nhân dân.

Với nghề, tôi thấy mình như vừa chập chững tập đi...

Tôi bắt đầu công việc viết lách từ rất sớm, như các bạn tuổi mới lớn khác, tập tành sáng tác thơ và tản văn. Ở những năm học cấp III, tôi chi tiêu cho mua dụng cụ học tập, hàng quà hay những thứ lặt vặt khác, từ chính nguồn nhuận bút viết lách.

Thức cùng sóng biển

Hầu như năm nào cũng vậy, khi những làn gió chướng đầu tiên lao xao trên cành lá là cái rạo rực về những bài báo xuân cứ thôi thúc trong mỗi chúng tôi.