(CMO) Nghề rèn - nghề truyền thống mang đậm dấu ấn lao động nông nghiệp. Ẩn chứa trong những giọt mồ hôi mặn chát, bàn tay chai sạm, thô ráp của các thợ rèn là cả một niềm vui được mùa của hàng lớp người đi khai hoang, mở cõi. Do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính là trình độ công nghệ hóa ngày càng cao kéo theo cơ giới hóa nông nghiệp làm cho nghề rèn truyền thống dần bị mai một.
Trên con đường đất nhỏ rẽ vào vào Ấp 1, xã Khánh Thuận, huyện U Minh, âm thanh đầu tiên cảm nhận được là tiếng búa đập chan chát vang lên từ lò rèn của ông Nguyễn Văn Phước (Hai Phước). Người đàn ông có đôi tay khéo léo nổi tiếng xứ rừng tràm U Minh này nay đã 66 tuổi, tóc đã hoa râm nhưng đôi mắt vẫn sắc, mọi thao tác đều rất thuần thục toát lên vẻ dạn dày với nghề.
Nghề cha truyền con nối
Ông lớn lên trong một gia đình có cha và ông nội đều là những người thợ rèn giỏi nức tiếng. Tuổi thơ và hơn nửa đời người ông gắn liền với nghề - ngần ấy năm ông quen với lò lửa, tiếng đục, đập khì và sức nóng lan tỏa, mồ hôi nhễ nhại.
Ông Hai Phước cùng con trai tỉ mỉ rèn búa. |
Ông chia sẻ: “Nghề này cực lắm, vừa nóng nực lại vừa nặng nhọc, vất vả. Suốt ngày ngồi một chỗ với với cây búa, bếp lửa mà chẳng kiếm được bao nhiêu”. Sau ngần ấy thời gian với nghề, ông chẳng nhớ nổi đôi tay mình đã làm ra bao nhiêu cây dao, lưỡi cuốc, cây búa, cây phảng… Giờ tuổi già, sức kiệt nên việc trui rèn một lúc đã làm ông thấm mệt.
Ông bùi ngùi kể, trước đây làm ăn rất khá bởi tất cả vật dụng từ sinh hoạt tới làm ruộng, cái gì cũng cần thợ rèn. Nay công cụ sản xuất phần lớn đã được cơ giới hóa, làm bằng máy móc nên rất tinh xảo, giá cả lại cạnh tranh nên nghề rèn thu hẹp dần.
Ông Hai Phước tự hào: “Chắc do tổ nghiệp đãi nên lò rèn của tôi vẫn nổi lửa thường xuyên”. Ông bảo, để có một sản phẩm chất lượng đòi hỏi người thợ phải biết chọn sắt, thép; biết nhìn độ lửa để tạo ra độ sắc bén; phải gia công hơn một tiếng đồng hồ với sự cộng lực của hai người mới ra được sản phẩm. Cực nhất là lúc phá sắt từ một thanh sắc dài rồi đập, mài mới ra được lưỡi vừa mỏng vừa bén. Và như thế, bàn tay người thợ đầy những vết chai hằn mới làm ra được sản phẩm ưng ý.
Nghề nào cũng vậy đều có rủi ro tai nạn. Ông Hai Phước cho hay, ông có anh con rể theo nghề này nhưng không may bị sắt văng vào mắt dẫn đến hư một mắt. Từ đó anh bỏ nghề rèn đi làm thợ hồ cho đến nay.
Ông Hai Phước mở đôi bao tay ra để lộ chi chít vết với phỏng, sưng rộp, cũ mới xen nhau hằn lên. Ông bảo, ai rành nghề đều không tránh khỏi thương tích, chỉ có yêu nghề mới bám trụ được.
Ông Hai Phước có 4 người con nhưng chỉ có anh Nguyễn Văn Hiếu, 39 tuổi, là nối nghiệp cha. Được hỏi nghề rèn giờ đã vào thoái trào, sao anh không chọn một nghề khác? Anh cười trừ: “Dù sao đây cũng là nghề truyền thống ba đời do ông cha truyền lại. Tuy có cực, vất vả nhưng chính nó đã nuôi sống nhiều thế hệ gia đình chúng tôi”.
Anh Nguyễn Văn Hiếu đang tạo hình một con dao. |
Khoảng một thập niên trước, thợ rèn mỗi ngày bỏ túi trên 1 triệu đồng là chuyện rất dễ dàng. Thế nhưng, giờ đây chỉ kiếm được 200.000 đồng đã là “hên”, mà bữa được bữa không. Anh Hiếu trãi lòng: “Với tôi, nghề rèn chẳng thể mang lại một cuộc sống vương giả nhưng hơi ấm bếp lửa trở thành động lực để tôi tiếp tục giữ gìn và bám trụ với nghề. Cũng như bao người khác, tôi mong muốn các con đều được đi học rồi có một nghề cao quý. Nhưng ngẫm lại, rồi đây ai sẽ thay tôi giữ gìn nghề truyền thống này?”.
Qua thời vang bóng
Khác với lò rèn của ông Hai Phước, lò rèn của ông Phạm Văn Phố, Khóm 3, thị trấn U Minh, huyện U Minh cũng đã tồn tại ba đời nhưng có nguy cơ sắp phải đóng cửa. Bởi hơn 1 năm nay, tình trạng khách đến đặt hàng và trui rèn dao ngày càng thưa dần.
Ông chạnh lòng: “Tôi theo nghề này từ năm 17 tuổi. Từ nhỏ chí lớn chỉ biết có mỗi cái nghề gõ chan chát này. Ruộng nương, vườn tược không có, cả nhà 8 người gánh nặng cơm, áo, gạo, tiền đều trông chờ vào nghề rèn. Giờ công việc vất vả mà thu nhập bấp bênh, bữa đói bữa no lại thêm sự cạnh tranh gay gắt của thị trường nên lò rèn của tôi chắc phải đóng cửa để tìm kế sinh nhai khác”.
Ông Nguyễn Phi Vũ, chủ lò rèn tại Ấp 1, xã Khánh Lâm, huyện U Minh trầm ngâm nhìn ra bến sông đón các con đang đi rèn dạo trở về sau 5 ngày lênh đênh trên sông nước. Trước tình cảnh ngày càng ế ẩm, ông đóng chiếc phà nhỏ đi rèn dạo theo các tuyến sông, nhờ vậy mà lò rèn ông mới duy trì đến nay. “Cơ ngơi” của ông vỏn vẻn chỉ hơn 3 mét vuông nhưng có đầy đủ các máy móc hàn, tiện, lò khè. Tất cả đã cũ kỹ theo năm tháng giống như vẻ tiều tụy, khắc khổ của ông, mặc dù ông chỉ 46 tuổi.
Mới đây thôi, bệnh tật đã bắt đầu tìm đến với ông. Ông kể, nhiều lúc đang ngồi rèn mà mặt mày xây xẩm, mọi thứ xung quanh quay như chong chóng. Bao năm gắn bó với nghề nên ông còn bị mắc bệnh về đường hô hấp, do suốt ngày hít bụi than và khói củi.
Đa phần các thợ rèn đều theo nghề cha truyền con nối nhưng hiện nay đứng trước nguy cơ mai một, phần do giá cả cạnh tranh, phần không có người kế nghiệp. Ông Phố bùi ngùi, e rằng mai đây không còn ai theo đuổi nghề này nữa. Người ta sẽ dần quên bếp lửa và tiếng búa trước cơn lốc của công nghệ hiện đại và thị trường.
Có lẽ không lâu nữa, các thợ rèn, lò rèn chỉ còn là những hoài niệm hoặc xuất hiện trên phim ảnh mà thôi. Những cái tên trứ danh nhiều đời sẽ chỉ còn là “vang bóng một thời”...
Nhi Ngô
Hiện dao rèn có giá dao động từ 80.000-100.000 đồng/món tùy theo kích cỡ. Riêng với gia công lại (trui, rèn lại dao cũ) thì chỉ thu được 20.000 đồng/món. Cũng như bao nghề khác, trước đây nghề rèn cũng làm theo thời vụ. Tầm 25-29 tháng Chạp thì lò rèn lúc nào cũng đỏ lửa, bởi nhiều hộ gia đình đến gia công mài, sửa lại vật dụng gia đình để phục vụ công việc nấu nướng mấy ngày Tết. Và đến mùa sa mưa, nông dân lại tìm đến thợ rèn để chuẩn bị nông cụ cho vụ mùa mới. |