Thứ năm, 30-10-25 21:27:03
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nghề rèn

Báo Cà Mau (CMO) Đã từng có một thời, hầu hết những nông cụ sản xuất và các dụng cụ phục vụ đời sống của người dân làm bằng sắt thép, từ cây phảng, con dao phay, dao yếm, dao mác,… kể cả dao ăn trầu, đều làm từ bàn tay của những người thợ rèn. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, những nông cụ truyền thống ấy và dụng cụ đã dần dần được thay thế bằng những thứ ra đời từ máy móc, đẹp và rẻ. Nhưng nhiều người vẫn không quên những dụng cụ được làm từ bàn tay của người thợ rèn.

Những năm đầu sau ngày miền Nam giải phóng, là khoảng thời gian nghề rèn thịnh hành nhất. Khi đất nước không còn chiến tranh, bà con cùng nhau về miền quê lao động sản xuất, lo cho kinh tế gia đình và góp phần xây dựng quê hương. Những thửa ruộng, mảnh vườn bỏ hoang trong chiến tranh loạn lạc, được bàn tay những người lao động chăm chỉ hàng ngày phát dọn, trồng trọt. Kể cả những vùng đất bỏ hoang chưa khai phá cũng được khai hoang để trồng lúa hoặc lên liếp lập vườn. Một vài chiếc máy cày và những đôi trâu của một số ít chủ trâu thời ấy không thể đảm đương nổi những cánh đồng mà mỗi mùa diện tích lại được mở rộng thêm. Hơn nữa, đa số bà con nông dân thời ấy đều nghèo, nếu có đủ máy và trâu cày, nhiều người chưa chắc gì có tiền để thuê làm đất. Vì vậy, nhu cầu một lượng lớn những nông cụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp bằng thủ công, chủ yếu là phảng, dao các loại… các lò rèn không đáp ứng đủ, nhất là khi vào thời vụ.

Lò rèn trên sông.                                                                                                                    Ảnh minh hoạ: NHẬT MINH

Nhiều người còn nhớ cái lò rèn của ông Sáu Lâm, ở vàm rạch Ba Chùa, thuở ấy nhộn nhịp ra sao. Ngày vừa hừng đông mà đã nghe tiếng quai búa đập vang xa cả một đoạn sông. Khách hàng đa số là những người từ Biển Bạch Tây, Biển Bạch Đông, Tân Bằng… ra chợ huyện ghé qua đặt hàng, lấy hàng, hay sửa nông cụ. Lò rèn nổi lửa là có xuồng ghé bến, nhộn nhịp suốt cả ngày… Nơi đây cũng là bến tàu đò chạy tuyến đường Cà Mau - Rạch Giá thường ghé đón và trả khách. Ở Thới Bình, ít ai không biết đến lò rèn ở vàm rạch Ba Chùa.

Nghề rèn là một nghề vất vả. Người thợ rèn hay những thợ phụ quai búa đập đều phải có sức dẻo dai và thân thể cơ bắp để làm việc từ hừng đông cho đến chiều tối. Sức nóng của miếng phôi thép được nung lên hàng ngàn độ và cái lò than lúc nào cũng đỏ rực từ người thụt ống bể bằng tay một cách điêu luyện. Người thợ cả là linh hồn của lò rèn, vừa có tính kiên nhẫn vừa khéo tay. Để có một sản phẩm ra đời, từ miếng phôi thép, phải trải qua nhiều công đoạn, như nung đỏ, đưa lên đe đập, đàn… để dần thành hình dạng của sản phẩm, rồi mài giũa, trui… Các lò rèn thường sử dụng nhiếp xe hoặc mảnh vỏ đạn 105 ly để làm phôi rèn.

Ngày trước, mỗi lò rèn cần có ít nhất 4-5 lao động. Ngoài người thợ cả còn có 2 thợ phụ quai búa, một người thổi bể và một người làm nguội, tức là làm láng, mài giũa. Người thợ cả thường có tuổi trung niên, bởi quá trình học việc và trở thành thợ cả phải trải qua nhiều năm, tích luỹ nhiều kinh nghiệm cho tay nghề. Những người còn lại trong lò rèn, chủ yếu là thanh niên trai tráng. Những người thợ làm việc cùng nhau thường tạo nên sự nhịp nhàng, ăn ý trong công việc. Từ miếng sắt thép bất kể kích thước, người thợ cả có thể tính ra rèn được những sản phẩm nào, từ đó chặt ra những miếng phôi vừa với khối lượng mà sản phẩm cần. Sau khi phôi được nung đỏ, thợ cả dùng kềm gắp đưa lên đe để thợ phụ quai búa đập. Những nhát búa mạnh mẽ, đều đặn, dứt khoát và đúng đích của 2 thợ phụ thay phiên nhau liên tục theo ý muốn của thợ cả qua sự dịch chuyển và trở qua, trở lại miếng phôi trên đe… Vậy là từ một miếng phôi thép, qua nhiều lần nung đỏ và đập, đàn, đã trở thành một sản phẩm cần thiết phục vụ quá trình lao động của con người! Mỗi ngày, trung bình một lò rèn có thể rèn được chục cây phảng.

Trước khi hoàn chỉnh một sản phẩm, phải qua khâu mài, giũa. Đây là khâu làm đẹp cho sản phẩm dưới bàn tay người thợ. Ngày trước, tất cả các khâu đều làm thủ công, cho nên mài là bằng đá mài và giũa thì bằng giũa bản. Sau cùng là đưa vào lò trui trước khi xuất xưởng. Cái tài của người thợ cả là trui cỡ nào thì vừa, không già hoặc không non lửa. Nếu già lửa thì khi sử dụng lưỡi sẽ giòn, dễ bị mẻ. Còn non lửa thì lưỡi bị mềm, mau lụt. Người thổi bể lò rèn cũng không phải là tay ngang, nghĩa là cũng phải qua luyện tập để rành công việc. 2 ống bể là nguồn cấp không khí cho lò đượm lửa. Khi cần tăng nhiệt độ nung thỏi phôi thép, thì 2 tay cầm 2 cây thụt ống bể phải làm việc liên tục. Nhưng quan trọng là thụt thế nào để ngọn lửa lò không phập phù mà lên thật đều, khó hơn học chèo xuồng nhiều!

Ngày trước, những người thợ rèn dù không giàu có nhưng cuộc sống đầy đủ. Nhà ông Sáu Lâm cũng là gia đình khá giả thời ấy. Ngày nay, qua một thời gian dài đất nước phát triển, cuộc sống của người dân cũng được cải thiện. Những nông cụ cho sản xuất thủ công ngày trước đã dần được thay thế bằng máy móc. Những cánh đồng ngày nay chủ yếu được làm đất bằng máy cày thay vì phảng phát cỏ ngày xưa, cùng những vuông tôm quanh mùa nhấp nhô sóng nước, đã kết thúc một thời kỳ người nông dân gắn liền với cây phảng và cây cào cỏ trên đồng ruộng.

Lò rèn của ông Sáu Lâm ở vàm rạch Ba Chùa ngày nay không còn ở vị trí cũ. Cái nền đất ở vàm rạch ngày nào một thời nhộn nhịp suốt ngày vang tiếng búa, nay đã sạt lở, không còn nhận ra. Con trai ông tiếp tục nối nghiệp ông, nhiều năm rồi dựng cái lò rèn ở ven lộ, bởi đường sông đâu còn xuồng ghe qua lại như xưa, khi đường lộ đã kết nối mọi nơi. Công việc xem ra nhẹ nhàng hơn ngày trước. Nhờ có điện lưới nên có thể sử dụng quạt tự chế để thổi lò thay cho người thụt bể. Khâu mài, giũa cũng bằng máy. Sản phẩm rèn chủ yếu bây giờ là các loại dao phục vụ nhu cầu cuộc sống của người dân trong vùng. Ngày nay, dù người ta bày bán rất nhiều loại dao bằng công nghệ đúc, mẫu mã đẹp, giá rẻ, nhưng nhiều người vẫn có thói quen sử dụng dao rèn, bởi nó bền, bén lâu. Như những thớt thị heo ở chợ chỉ dùng dao rèn, bởi xẻ thịt, chặt xương thoải mái. Nhờ vậy lò rèn của thế hệ hậu duệ ông Sáu Lâm, dù không còn nhộn nhịp như xưa nhưng vẫn thường đỏ lửa. Con cháu ông vẫn còn sống được với nghề rèn.

Nghề rèn đã qua thời kỳ thịnh hành và ngày càng thu hẹp. Rồi đến một lúc nào đó sẽ chấm dứt sự hiện diện của mình sau một giai đoạn trong quá trình phát triển của đời sống con người. Trên những cánh đồng ngày nay, nhiều công đoạn máy móc đã thay thế sức người nông dân. Cũng như một vài nghề khác, chẳng hạn như nghề đóng xuồng, rồi sẽ chỉ còn trong ký ức của một thời./.

Nguyễn Sông Trẹm

SỨC MẠNH GẮN KẾT TÌNH QUÂN - DÂN

Công tác dân vận luôn được xác định là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, thường xuyên, là “cầu nối” bền chặt giữa lực lượng vũ trang với Nhân dân. Thấm nhuần quan điểm của Đảng về công tác dân vận trong tình hình mới, Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển (CSB) 4 và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng (BĐBP) tỉnh Cà Mau đã triển khai hiệu quả phong trào thi đua “Dân vận khéo”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt” giai đoạn 2021-2025, góp phần củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh Nhân dân vững chắc từ sớm, từ xa trên vùng biển Tây Nam Tổ quốc.

Nét đẹp làng nghề xứ biển

Hình thành từ đời sống lao động sản xuất và bản sắc văn hoá của người dân bản địa, nhiều làng nghề ở các xã ven biển Cà Mau được lưu giữ, duy trì sức sống hơn 100 năm qua. Với bà con xứ biển, các nghề truyền thống không chỉ là sinh kế, mà còn là niềm tự hào, từ đó thêm gắn bó, nỗ lực giữ gìn.

Ngành giáo dục tiên phong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng

Trong bối cảnh hiện nay, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách mà đã trở thành trách nhiệm chung của toàn xã hội. Đặc biệt, đối với ngành giáo dục, đây được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, đòi hỏi mỗi thầy cô giáo, mỗi học sinh, sinh viên trở thành những “chiến sĩ” tiên phong trên mặt trận tư tưởng.

Bà Phạm Thị Mỹ Não: Từ bi phải có trí tuệ

Trong nhịp sống hôm nay, guồng quay cơm áo nhiều khi khiến người ta trở nên vội vã thì những câu chuyện về sự sẻ chia lại càng có giá trị gấp bội. Ở tuổi 66, bà Phạm Thị Mỹ Não (phường Tân Thành) vẫn bền bỉ gieo hạt lành, kết nối những tấm lòng thiện nguyện để dựng xây cầu nông thôn, cất mái nhà cho bà con nghèo an cư lạc nghiệp.

Xẻo Đước anh hùng

Những người dân cố cựu ấp Xẻo Đước, trong đó có những người trực tiếp tham gia công tác tại các cơ quan của Tỉnh uỷ Cà Mau khi nhắc nhớ Khu Căn cứ Tỉnh uỷ Xẻo Đước (ấp Xẻo Đước, xã Phú Mỹ) là giọng nói sôi nổi, đôi mắt sáng rực, lòng trào dâng sự tự hào khôn tả.

Mùa vú sữa trên miền quê mới

Tháng 8, khi từng cơn gió từ biển Tây lướt qua rặng đước, rừng tràm bạt ngàn xanh thẫm, cũng là lúc lòng người dân Cà Mau lại trào dâng xúc động, thành kính nhớ về Bác Hồ. Hơn 55 năm kể từ ngày Người để lại bản Di chúc thiêng liêng, mỗi câu chữ vẫn còn vẹn nguyên giá trị, soi sáng hành trình cách mạng, nâng đỡ ý chí và tinh thần Nhân dân trên từng nẻo quê hương cực Nam của Tổ quốc.

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng" - Bài cuối: Hành động để đổi mới, vươn xa 

Nghị quyết 68 đã xác định những mục tiêu chiến lược, nhưng mục tiêu ấy không thể biến thành hiện thực nếu khâu tổ chức thực hiện thiếu sự tập trung, quyết liệt. Để nghị quyết thực sự đi vào đời sống xã hội một cách thực chất, trở thành nền tảng, động lực và khơi dậy khát vọng, thành tựu phát triển của khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) trong kỷ nguyên vươn mình, cần lộ trình hành động rõ ràng và quyết tâm cao độ. 

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng" - Bài 3: Cơ hội vàng để kinh tế tư nhân cất cánh

Những nội dung mang tính đột phá của Nghị quyết 68 được kỳ vọng sẽ tạo cú huých lớn cho kinh tế tư nhân (KTTN) phát triển mạnh mẽ. Sự đồng hành, hỗ trợ và kiến tạo của Nhà nước sẽ là "chất xúc tác" để khu vực KTTN phát huy tối đa tiềm năng, bứt phá, đóng góp to lớn hơn vào sự thịnh vượng và phát triển bền vững của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng" - Bài 2: "Đêm trước" Nghị quyết 68

Trước khi Nghị quyết 68 ra đời, trên địa bàn tỉnh Cà Mau, hộ kinh doanh cá thể (KDCT), doanh nghiệp (DN) nhỏ/siêu nhỏ cùng lúc đứng trước 2 vấn đề tưởng chừng mâu thuẫn với nhau, đó là "chưa thể lớn" và "chưa chịu lớn", thế nhưng chúng lại liên quan chặt chẽ nhau, phản ánh thực tại bức tranh cộng đồng DN nhỏ/siêu nhỏ và các hộ KDCT của tỉnh.

Phát triển kinh tế tư nhân - Khát vọng "hoá Gióng"

Trong giai đoạn “sắp xếp lại giang sơn”, Nghị quyết 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025 (Nghị quyết 68) về phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) được Bộ Chính trị ban hành. Với tinh thần xoá bỏ định kiến, tạo điều kiện đột phá, Nghị quyết 68 là sự khẳng định mạnh mẽ của Đảng về vai trò then chốt, động lực quan trọng hàng đầu của khu vực KTTN trong tiến trình phát triển đất nước. Ví như câu chuyện về Thánh Gióng trong truyền thuyết xưa, Nghị quyết 68 đã cung cấp đầy đủ điều kiện chín muồi để KTTN đủ sức chuyển hoá thành những thành tựu phát triển rực rỡ, kỳ diệu của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình.