ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 22-7-25 12:57:15
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nghề rèn

Báo Cà Mau (CMO) Đã từng có một thời, hầu hết những nông cụ sản xuất và các dụng cụ phục vụ đời sống của người dân làm bằng sắt thép, từ cây phảng, con dao phay, dao yếm, dao mác,… kể cả dao ăn trầu, đều làm từ bàn tay của những người thợ rèn. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, những nông cụ truyền thống ấy và dụng cụ đã dần dần được thay thế bằng những thứ ra đời từ máy móc, đẹp và rẻ. Nhưng nhiều người vẫn không quên những dụng cụ được làm từ bàn tay của người thợ rèn.

Những năm đầu sau ngày miền Nam giải phóng, là khoảng thời gian nghề rèn thịnh hành nhất. Khi đất nước không còn chiến tranh, bà con cùng nhau về miền quê lao động sản xuất, lo cho kinh tế gia đình và góp phần xây dựng quê hương. Những thửa ruộng, mảnh vườn bỏ hoang trong chiến tranh loạn lạc, được bàn tay những người lao động chăm chỉ hàng ngày phát dọn, trồng trọt. Kể cả những vùng đất bỏ hoang chưa khai phá cũng được khai hoang để trồng lúa hoặc lên liếp lập vườn. Một vài chiếc máy cày và những đôi trâu của một số ít chủ trâu thời ấy không thể đảm đương nổi những cánh đồng mà mỗi mùa diện tích lại được mở rộng thêm. Hơn nữa, đa số bà con nông dân thời ấy đều nghèo, nếu có đủ máy và trâu cày, nhiều người chưa chắc gì có tiền để thuê làm đất. Vì vậy, nhu cầu một lượng lớn những nông cụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp bằng thủ công, chủ yếu là phảng, dao các loại… các lò rèn không đáp ứng đủ, nhất là khi vào thời vụ.

Lò rèn trên sông.                                                                                                                    Ảnh minh hoạ: NHẬT MINH

Nhiều người còn nhớ cái lò rèn của ông Sáu Lâm, ở vàm rạch Ba Chùa, thuở ấy nhộn nhịp ra sao. Ngày vừa hừng đông mà đã nghe tiếng quai búa đập vang xa cả một đoạn sông. Khách hàng đa số là những người từ Biển Bạch Tây, Biển Bạch Đông, Tân Bằng… ra chợ huyện ghé qua đặt hàng, lấy hàng, hay sửa nông cụ. Lò rèn nổi lửa là có xuồng ghé bến, nhộn nhịp suốt cả ngày… Nơi đây cũng là bến tàu đò chạy tuyến đường Cà Mau - Rạch Giá thường ghé đón và trả khách. Ở Thới Bình, ít ai không biết đến lò rèn ở vàm rạch Ba Chùa.

Nghề rèn là một nghề vất vả. Người thợ rèn hay những thợ phụ quai búa đập đều phải có sức dẻo dai và thân thể cơ bắp để làm việc từ hừng đông cho đến chiều tối. Sức nóng của miếng phôi thép được nung lên hàng ngàn độ và cái lò than lúc nào cũng đỏ rực từ người thụt ống bể bằng tay một cách điêu luyện. Người thợ cả là linh hồn của lò rèn, vừa có tính kiên nhẫn vừa khéo tay. Để có một sản phẩm ra đời, từ miếng phôi thép, phải trải qua nhiều công đoạn, như nung đỏ, đưa lên đe đập, đàn… để dần thành hình dạng của sản phẩm, rồi mài giũa, trui… Các lò rèn thường sử dụng nhiếp xe hoặc mảnh vỏ đạn 105 ly để làm phôi rèn.

Ngày trước, mỗi lò rèn cần có ít nhất 4-5 lao động. Ngoài người thợ cả còn có 2 thợ phụ quai búa, một người thổi bể và một người làm nguội, tức là làm láng, mài giũa. Người thợ cả thường có tuổi trung niên, bởi quá trình học việc và trở thành thợ cả phải trải qua nhiều năm, tích luỹ nhiều kinh nghiệm cho tay nghề. Những người còn lại trong lò rèn, chủ yếu là thanh niên trai tráng. Những người thợ làm việc cùng nhau thường tạo nên sự nhịp nhàng, ăn ý trong công việc. Từ miếng sắt thép bất kể kích thước, người thợ cả có thể tính ra rèn được những sản phẩm nào, từ đó chặt ra những miếng phôi vừa với khối lượng mà sản phẩm cần. Sau khi phôi được nung đỏ, thợ cả dùng kềm gắp đưa lên đe để thợ phụ quai búa đập. Những nhát búa mạnh mẽ, đều đặn, dứt khoát và đúng đích của 2 thợ phụ thay phiên nhau liên tục theo ý muốn của thợ cả qua sự dịch chuyển và trở qua, trở lại miếng phôi trên đe… Vậy là từ một miếng phôi thép, qua nhiều lần nung đỏ và đập, đàn, đã trở thành một sản phẩm cần thiết phục vụ quá trình lao động của con người! Mỗi ngày, trung bình một lò rèn có thể rèn được chục cây phảng.

Trước khi hoàn chỉnh một sản phẩm, phải qua khâu mài, giũa. Đây là khâu làm đẹp cho sản phẩm dưới bàn tay người thợ. Ngày trước, tất cả các khâu đều làm thủ công, cho nên mài là bằng đá mài và giũa thì bằng giũa bản. Sau cùng là đưa vào lò trui trước khi xuất xưởng. Cái tài của người thợ cả là trui cỡ nào thì vừa, không già hoặc không non lửa. Nếu già lửa thì khi sử dụng lưỡi sẽ giòn, dễ bị mẻ. Còn non lửa thì lưỡi bị mềm, mau lụt. Người thổi bể lò rèn cũng không phải là tay ngang, nghĩa là cũng phải qua luyện tập để rành công việc. 2 ống bể là nguồn cấp không khí cho lò đượm lửa. Khi cần tăng nhiệt độ nung thỏi phôi thép, thì 2 tay cầm 2 cây thụt ống bể phải làm việc liên tục. Nhưng quan trọng là thụt thế nào để ngọn lửa lò không phập phù mà lên thật đều, khó hơn học chèo xuồng nhiều!

Ngày trước, những người thợ rèn dù không giàu có nhưng cuộc sống đầy đủ. Nhà ông Sáu Lâm cũng là gia đình khá giả thời ấy. Ngày nay, qua một thời gian dài đất nước phát triển, cuộc sống của người dân cũng được cải thiện. Những nông cụ cho sản xuất thủ công ngày trước đã dần được thay thế bằng máy móc. Những cánh đồng ngày nay chủ yếu được làm đất bằng máy cày thay vì phảng phát cỏ ngày xưa, cùng những vuông tôm quanh mùa nhấp nhô sóng nước, đã kết thúc một thời kỳ người nông dân gắn liền với cây phảng và cây cào cỏ trên đồng ruộng.

Lò rèn của ông Sáu Lâm ở vàm rạch Ba Chùa ngày nay không còn ở vị trí cũ. Cái nền đất ở vàm rạch ngày nào một thời nhộn nhịp suốt ngày vang tiếng búa, nay đã sạt lở, không còn nhận ra. Con trai ông tiếp tục nối nghiệp ông, nhiều năm rồi dựng cái lò rèn ở ven lộ, bởi đường sông đâu còn xuồng ghe qua lại như xưa, khi đường lộ đã kết nối mọi nơi. Công việc xem ra nhẹ nhàng hơn ngày trước. Nhờ có điện lưới nên có thể sử dụng quạt tự chế để thổi lò thay cho người thụt bể. Khâu mài, giũa cũng bằng máy. Sản phẩm rèn chủ yếu bây giờ là các loại dao phục vụ nhu cầu cuộc sống của người dân trong vùng. Ngày nay, dù người ta bày bán rất nhiều loại dao bằng công nghệ đúc, mẫu mã đẹp, giá rẻ, nhưng nhiều người vẫn có thói quen sử dụng dao rèn, bởi nó bền, bén lâu. Như những thớt thị heo ở chợ chỉ dùng dao rèn, bởi xẻ thịt, chặt xương thoải mái. Nhờ vậy lò rèn của thế hệ hậu duệ ông Sáu Lâm, dù không còn nhộn nhịp như xưa nhưng vẫn thường đỏ lửa. Con cháu ông vẫn còn sống được với nghề rèn.

Nghề rèn đã qua thời kỳ thịnh hành và ngày càng thu hẹp. Rồi đến một lúc nào đó sẽ chấm dứt sự hiện diện của mình sau một giai đoạn trong quá trình phát triển của đời sống con người. Trên những cánh đồng ngày nay, nhiều công đoạn máy móc đã thay thế sức người nông dân. Cũng như một vài nghề khác, chẳng hạn như nghề đóng xuồng, rồi sẽ chỉ còn trong ký ức của một thời./.

Nguyễn Sông Trẹm

Dân vận khéo, vun đắp niềm tin - Bài 1: Vì lợi ích Nhân dân

Thời gian qua, ở tỉnh Cà Mau đã có hàng ngàn mô hình dân vận khéo (DVK) hiệu quả, thiết thực vì cuộc sống người dân, hướng đến xây dựng “gia đình hạnh phúc”, “cộng đồng hạnh phúc” và dần tiến tới “xã hội hạnh phúc”. Và công tác dân vận khéo chính là cầu nối giữa ý Đảng với lòng dân; khối đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển bền vững kinh tế - xã hội tỉnh nhà.

Nửa thế kỷ chuyện “trồng người” ở Cà Mau - Bài cuối: Ðất lành - Trăm năm tươi tốt

Sau 50 năm thống nhất đất nước, hệ thống trường học trên địa tỉnh Cà Mau được quy hoạch, đầu tư kiên cố, khang trang (trường xanh, sạch, đẹp) theo Ðề án kiên cố hoá trường lớp, trang thiết bị được đầu tư hiện đại, phục vụ tốt Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, đáp ứng tốt nhu cầu dạy và học. Các trường được đầu tư theo hướng tiến tới đủ điều kiện công nhận trường đạt chuẩn quốc gia, hiện nay ngành giáo dục đang tiếp tục triển khai thực hiện sắp xếp mạng lưới trường lớp theo Ðề án “Sắp xếp, phát triển mạng lưới trường học trên địa bàn tỉnh Cà Mau giai đoạn 2020-2025, định hướng đến năm 2030”.

Nửa thế kỷ chuyện “trồng người” ở Cà Mau - Bài 2: Nhà giáo hai quê

Trong những năm tháng sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đội ngũ giáo viên vừa thiếu về số lượng, vừa hạn chế về chuyên môn. Tuy vậy, với tinh thần “tất cả vì sự nghiệp trồng người”, nhiều giáo viên tình nguyện từ miền Bắc vào Nam theo tiếng gọi “Nam tiến”, đã không ngại gian khổ bám trụ để dạy học giữa rừng đước, rừng tràm, bưng biền, để tạo nên lớp thế hệ tương lai cho quê hương.

Nửa thế kỷ chuyện “trồng người” ở Cà Mau

Từ "vùng trũng” giáo dục khi giải phóng (30/4/1975), sau nửa thế kỷ, Cà Mau - vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc đã có thể tự tin, tự hào để nói về một vùng đất hiếu học, vùng đất học. Một nhà giáo về hưu, được tăng cường từ miền Bắc vào để giảng dạy những năm đầu sau giải phóng, đã nói đại ý về giáo dục Cà Mau: "Bác Hồ dạy “mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”. Cà Mau là đất lành, thế nên rừng ở Cà Mau mênh mông đước tràm, chim kéo về làm tổ. Con người Cà Mau thì có bản sắc, cá tính riêng, chúng tôi, những người làm nghề giáo chỉ có mặt và góp thêm những điều mình có, nhỏ bé thôi, để khơi mở nội lực lớn lao của tài nguyên con người nơi đây”.

Báo chí đồng hành, đưa tín dụng chính sách đến dân - Bài cuối: Đồng hành trong chuyển đổi số

Chuyển đổi số trong hệ thống Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) đang ngày càng đi vào chiều sâu, từ khâu quản lý đến phục vụ người dân. Trong hành trình đó, báo chí đã và đang đóng vai trò không thể thay thế, không chỉ là “kênh truyền dẫn” thông tin, mà còn là người bạn đồng hành tin cậy, giúp đưa tín dụng chính sách đến với người dân một cách hiệu quả, nhất là trong bối cảnh số hóa đang chuyển mình mạnh mẽ.

Báo chí đồng hành, đưa tín dụng chính sách đến dân

Giữa dòng chảy không ngừng của chính sách, báo chí như ống kính soi chiếu hiệu quả từ thực tiễn, là kênh chuyển tải tâm tư, nguyện vọng và nhu cầu chính đáng của người dân, đặc biệt là nhóm người yếu thế, từ đó góp phần xây dựng chính sách hoàn thiện, hiệu quả, thực sự đi vào đời sống Nhân dân. Ðiều này đặc biệt thấy rõ ở vai trò của báo chí đối với công tác truyền thông tín dụng chính sách thời gian qua.

Kỷ niệm với Trường Trung học Tiền Phong

Nhớ giữa năm 1953 đầu năm 1954, tôi đang học Trường Trung học Tiền Phong do Xứ đoàn Thanh niên cứu quốc Nam Bộ tổ chức thì có quyết định rút tôi về cơ quan Xứ đoàn để bảo vệ Ban Biên tập Báo Nhân Dân miền Nam, do anh Kỉnh (Nguyễn Phượng Vũ) và anh Hưởng Triều (Trần Bạch Ðằng) phụ trách.

Công tác cán bộ: Ai chọn, chọn ai? - Bài cuối: Thành bại tại… cán bộ

Tổng Bí thư Tô Lâm, người đứng đầu Đảng ta khẳng định: “Công tác cán bộ là mấu chốt quyết định sự thành bại của chính quyền địa phương 2 cấp”. Gắn với cuộc cách mạng về bộ máy tổ chức là cuộc cách mạng về công tác cán bộ. Năng lực thực tiễn, đạo đức công vụ, uy tín Nhân dân là những tiêu chí cao nhất cho việc lựa chọn cán bộ. Đây cũng là những vấn đề mà tỉnh Cà Mau đặc biệt lưu tâm trong việc “chọn người” xứng tầm, đảm đương được yêu cầu nhiệm vụ trong bối cảnh mới.

Công tác cán bộ: Ai chọn, chọn ai?

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi công tác cán bộ là vấn đề hết sức hệ trọng đối với sự nghiệp cách mạng: “Cán bộ là cái gốc của mọi việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Công tác cán bộ là công việc khó, nhiều biến số, do đó cần có quy trình, cơ chế, tiêu chí lựa chọn chặt chẽ, thận trọng nhưng đồng thời cũng phải có sự mạnh dạn, đột phá. Việc “chọn người” cần phải làm rõ những vấn đề mấu chốt nhất, đó là “ai chọn?”, “chọn ai?” và chọn như thế nào? Gắn với cuộc cách mạng sắp xếp, tinh gọn bộ máy tổ chức, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp hiện nay, công tác cán bộ là vấn đề hết sức thời sự, quyết định đến hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy mới.

"Lá chắn thép" nơi cực Nam Tổ quốc - Bài cuối: Dệt nghĩa tình nơi vùng biên

Thắt chặt tình quân - dân, Bộ đội Biên phòng (BÐBP) Cà Mau tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế - xã hội ở các địa bàn biên giới biển, đảo, thường xuyên thực hiện các hoạt động nghĩa tình, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho bà con. Ðiều này góp phần củng cố sức mạnh đại đoàn kết, tạo nên thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ chủ quyền biển, đảo.