ĐT: 0939.923988
Thứ tư, 3-7-24 15:38:44
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nghề rèn

Báo Cà Mau (CMO) Đã từng có một thời, hầu hết những nông cụ sản xuất và các dụng cụ phục vụ đời sống của người dân làm bằng sắt thép, từ cây phảng, con dao phay, dao yếm, dao mác,… kể cả dao ăn trầu, đều làm từ bàn tay của những người thợ rèn. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, những nông cụ truyền thống ấy và dụng cụ đã dần dần được thay thế bằng những thứ ra đời từ máy móc, đẹp và rẻ. Nhưng nhiều người vẫn không quên những dụng cụ được làm từ bàn tay của người thợ rèn.

Những năm đầu sau ngày miền Nam giải phóng, là khoảng thời gian nghề rèn thịnh hành nhất. Khi đất nước không còn chiến tranh, bà con cùng nhau về miền quê lao động sản xuất, lo cho kinh tế gia đình và góp phần xây dựng quê hương. Những thửa ruộng, mảnh vườn bỏ hoang trong chiến tranh loạn lạc, được bàn tay những người lao động chăm chỉ hàng ngày phát dọn, trồng trọt. Kể cả những vùng đất bỏ hoang chưa khai phá cũng được khai hoang để trồng lúa hoặc lên liếp lập vườn. Một vài chiếc máy cày và những đôi trâu của một số ít chủ trâu thời ấy không thể đảm đương nổi những cánh đồng mà mỗi mùa diện tích lại được mở rộng thêm. Hơn nữa, đa số bà con nông dân thời ấy đều nghèo, nếu có đủ máy và trâu cày, nhiều người chưa chắc gì có tiền để thuê làm đất. Vì vậy, nhu cầu một lượng lớn những nông cụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp bằng thủ công, chủ yếu là phảng, dao các loại… các lò rèn không đáp ứng đủ, nhất là khi vào thời vụ.

Lò rèn trên sông.                                                                                                                    Ảnh minh hoạ: NHẬT MINH

Nhiều người còn nhớ cái lò rèn của ông Sáu Lâm, ở vàm rạch Ba Chùa, thuở ấy nhộn nhịp ra sao. Ngày vừa hừng đông mà đã nghe tiếng quai búa đập vang xa cả một đoạn sông. Khách hàng đa số là những người từ Biển Bạch Tây, Biển Bạch Đông, Tân Bằng… ra chợ huyện ghé qua đặt hàng, lấy hàng, hay sửa nông cụ. Lò rèn nổi lửa là có xuồng ghé bến, nhộn nhịp suốt cả ngày… Nơi đây cũng là bến tàu đò chạy tuyến đường Cà Mau - Rạch Giá thường ghé đón và trả khách. Ở Thới Bình, ít ai không biết đến lò rèn ở vàm rạch Ba Chùa.

Nghề rèn là một nghề vất vả. Người thợ rèn hay những thợ phụ quai búa đập đều phải có sức dẻo dai và thân thể cơ bắp để làm việc từ hừng đông cho đến chiều tối. Sức nóng của miếng phôi thép được nung lên hàng ngàn độ và cái lò than lúc nào cũng đỏ rực từ người thụt ống bể bằng tay một cách điêu luyện. Người thợ cả là linh hồn của lò rèn, vừa có tính kiên nhẫn vừa khéo tay. Để có một sản phẩm ra đời, từ miếng phôi thép, phải trải qua nhiều công đoạn, như nung đỏ, đưa lên đe đập, đàn… để dần thành hình dạng của sản phẩm, rồi mài giũa, trui… Các lò rèn thường sử dụng nhiếp xe hoặc mảnh vỏ đạn 105 ly để làm phôi rèn.

Ngày trước, mỗi lò rèn cần có ít nhất 4-5 lao động. Ngoài người thợ cả còn có 2 thợ phụ quai búa, một người thổi bể và một người làm nguội, tức là làm láng, mài giũa. Người thợ cả thường có tuổi trung niên, bởi quá trình học việc và trở thành thợ cả phải trải qua nhiều năm, tích luỹ nhiều kinh nghiệm cho tay nghề. Những người còn lại trong lò rèn, chủ yếu là thanh niên trai tráng. Những người thợ làm việc cùng nhau thường tạo nên sự nhịp nhàng, ăn ý trong công việc. Từ miếng sắt thép bất kể kích thước, người thợ cả có thể tính ra rèn được những sản phẩm nào, từ đó chặt ra những miếng phôi vừa với khối lượng mà sản phẩm cần. Sau khi phôi được nung đỏ, thợ cả dùng kềm gắp đưa lên đe để thợ phụ quai búa đập. Những nhát búa mạnh mẽ, đều đặn, dứt khoát và đúng đích của 2 thợ phụ thay phiên nhau liên tục theo ý muốn của thợ cả qua sự dịch chuyển và trở qua, trở lại miếng phôi trên đe… Vậy là từ một miếng phôi thép, qua nhiều lần nung đỏ và đập, đàn, đã trở thành một sản phẩm cần thiết phục vụ quá trình lao động của con người! Mỗi ngày, trung bình một lò rèn có thể rèn được chục cây phảng.

Trước khi hoàn chỉnh một sản phẩm, phải qua khâu mài, giũa. Đây là khâu làm đẹp cho sản phẩm dưới bàn tay người thợ. Ngày trước, tất cả các khâu đều làm thủ công, cho nên mài là bằng đá mài và giũa thì bằng giũa bản. Sau cùng là đưa vào lò trui trước khi xuất xưởng. Cái tài của người thợ cả là trui cỡ nào thì vừa, không già hoặc không non lửa. Nếu già lửa thì khi sử dụng lưỡi sẽ giòn, dễ bị mẻ. Còn non lửa thì lưỡi bị mềm, mau lụt. Người thổi bể lò rèn cũng không phải là tay ngang, nghĩa là cũng phải qua luyện tập để rành công việc. 2 ống bể là nguồn cấp không khí cho lò đượm lửa. Khi cần tăng nhiệt độ nung thỏi phôi thép, thì 2 tay cầm 2 cây thụt ống bể phải làm việc liên tục. Nhưng quan trọng là thụt thế nào để ngọn lửa lò không phập phù mà lên thật đều, khó hơn học chèo xuồng nhiều!

Ngày trước, những người thợ rèn dù không giàu có nhưng cuộc sống đầy đủ. Nhà ông Sáu Lâm cũng là gia đình khá giả thời ấy. Ngày nay, qua một thời gian dài đất nước phát triển, cuộc sống của người dân cũng được cải thiện. Những nông cụ cho sản xuất thủ công ngày trước đã dần được thay thế bằng máy móc. Những cánh đồng ngày nay chủ yếu được làm đất bằng máy cày thay vì phảng phát cỏ ngày xưa, cùng những vuông tôm quanh mùa nhấp nhô sóng nước, đã kết thúc một thời kỳ người nông dân gắn liền với cây phảng và cây cào cỏ trên đồng ruộng.

Lò rèn của ông Sáu Lâm ở vàm rạch Ba Chùa ngày nay không còn ở vị trí cũ. Cái nền đất ở vàm rạch ngày nào một thời nhộn nhịp suốt ngày vang tiếng búa, nay đã sạt lở, không còn nhận ra. Con trai ông tiếp tục nối nghiệp ông, nhiều năm rồi dựng cái lò rèn ở ven lộ, bởi đường sông đâu còn xuồng ghe qua lại như xưa, khi đường lộ đã kết nối mọi nơi. Công việc xem ra nhẹ nhàng hơn ngày trước. Nhờ có điện lưới nên có thể sử dụng quạt tự chế để thổi lò thay cho người thụt bể. Khâu mài, giũa cũng bằng máy. Sản phẩm rèn chủ yếu bây giờ là các loại dao phục vụ nhu cầu cuộc sống của người dân trong vùng. Ngày nay, dù người ta bày bán rất nhiều loại dao bằng công nghệ đúc, mẫu mã đẹp, giá rẻ, nhưng nhiều người vẫn có thói quen sử dụng dao rèn, bởi nó bền, bén lâu. Như những thớt thị heo ở chợ chỉ dùng dao rèn, bởi xẻ thịt, chặt xương thoải mái. Nhờ vậy lò rèn của thế hệ hậu duệ ông Sáu Lâm, dù không còn nhộn nhịp như xưa nhưng vẫn thường đỏ lửa. Con cháu ông vẫn còn sống được với nghề rèn.

Nghề rèn đã qua thời kỳ thịnh hành và ngày càng thu hẹp. Rồi đến một lúc nào đó sẽ chấm dứt sự hiện diện của mình sau một giai đoạn trong quá trình phát triển của đời sống con người. Trên những cánh đồng ngày nay, nhiều công đoạn máy móc đã thay thế sức người nông dân. Cũng như một vài nghề khác, chẳng hạn như nghề đóng xuồng, rồi sẽ chỉ còn trong ký ức của một thời./.

Nguyễn Sông Trẹm

Trường nội trú Cà Mau - Ninh Bình: Những ký ức không phai

Cuối tháng 3/1972, ở đây chưa có mưa, còn là mùa hạn. Thầy Lê Châu, Hiệu trưởng và thầy Năm Thuật, Hiệu phó Trường Nội trú Cà Mau - Ninh Bình, khoá 3, đến Xóm Dừa, Ấp 6A. Cô Mười Mỳ là Bí thư Chi bộ xã Quách Văn Phẩm “B”, huyện Tư Kháng (huyện Ðầm Dơi ngày nay). Các thầy tìm chỗ để cất trường học và chọn vườn cô Út Ngươn để đặt lớp học. Xa ngoài kia, chọn vườn Biện Ðài, Lung Chim và 1 điểm nữa ở Thanh Tùng.

Báo Minh Hải - Niềm tự hào chưa cạn tỏ

Báo Minh Hải là tiền thân của Báo Bạc Liêu, Cà Mau ngày nay. Hơn 20 năm hoạt động, tờ báo này đã trở thành chiếc nôi rèn luyện cho thế hệ báo chí sau ngày thống nhất đất nước. Từ đây, đã có nhiều nhà báo trưởng thành, trở thành cán bộ lãnh đạo của báo chí, văn học nghệ thuật 2 tỉnh và Trung ương, nhiều nhà báo trở thành những tài danh báo chí, văn chương. Hướng tới kỷ niệm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6, chúng tôi trân trọng giới thiệu tâm tình của một nhà báo, nhà văn, người đã sống trọn vẹn suốt thời gian măng sét Báo Minh Hải tồn tại trong lòng độc giả, cùng bạn đọc hôm nay.

Ðể vùng quê… trắng hộ nghèo - Bài cuối: Ðiểm sáng xoá nghèo

Trên cơ sở trợ lực từ nhiều chương trình, chính sách, sự chung tay góp sức của cộng đồng; các cấp uỷ đảng, chính quyền trên địa bàn tỉnh đã sâu sát trong dân, nắm chặt hoàn cảnh hộ nghèo để triển khai đồng loạt biện pháp hỗ trợ phù hợp, hiệu quả; đồng thời giúp người nghèo thay đổi nếp nghĩ, cách làm, khơi gợi ý chí phấn đấu thoát nghèo, hướng đến tương lai tốt đẹp hơn.

Ðể vùng quê… trắng hộ nghèo - Bài 2: Không để người nghèo bị bỏ lại phía sau

Cùng với triển khai đồng bộ các chương trình mục tiêu quốc gia, Cà Mau thực hiện tốt phong trào thi đua “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”. Phong trào đã lan toả giá trị nhân văn trong cộng đồng, tạo động lực, niềm tin để hộ nghèo, người gặp hoạn nạn sớm ổn định cuộc sống, giúp các địa phương hiện thực hoá mục tiêu giảm nghèo bền vững.

Ðể vùng quê… trắng hộ nghèo

Cùng với phục hồi và tăng trưởng kinh tế, Cà Mau luôn đặt mục tiêu giảm nghèo là ưu tiên hàng đầu. Bằng những giải pháp đồng bộ, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, ý thức vươn lên của hộ nghèo, cuối năm 2023 Cà Mau còn 1,6% hộ nghèo (giảm 2.507 hộ nghèo), 1,56% hộ cận nghèo (giảm 922 hộ). Ðặc biệt, tỉnh có 170 ấp, khóm và 5 xã, phường, thị trấn xoá trắng hộ nghèo. Ðó là những điểm sáng, lan toả kinh nghiệm, cách làm hay và là động lực trong hành trình giảm nghèo bền vững của tỉnh.

Ðảng tăng cường sức mạnh, dân đồng thuận làm theo - Bài cuối: Phải thật sự gần dân, sát cơ sở

Đến thời điểm này, có thể khẳng định chủ trương trước đây của Huyện uỷ Phú Tân về cải tạo vườn tạp, trồng hoa màu, mang lại hiệu quả kinh tế hộ; hay như việc tận dụng trồng cây xanh ven sông để ngăn chặn sạt lở... đã mang lại kết quả đáng tự hào, được Nhân dân trong huyện tích cực hưởng ứng tham gia, lan toả. Nhìn từ Phú Tân, các địa phương khác có điều kiện tương tự, học tập làm theo và cũng đạt kết quả đáng phấn khởi. Bài học rút ra là cái gì mang lại lợi ích thiết thực vì việc chung sẽ được người dân tích cực đồng lòng chung tay, góp sức.

Ðảng tăng cường sức mạnh, dân đồng thuận làm theo - Bài 2: ...Ðến chỉ thị cấp bách

Trước những biến đổi khó lường của thời tiết, ngày 16/2/2024, Huyện uỷ Trần Văn Thời đã ban hành Chỉ thị số 09-CT/HU (Chỉ thị 09) về tăng cường các biện pháp ứng phó, khắc phục hậu quả do hạn hán gây ra, nhằm huy động sức mạnh cả hệ thống chính trị để ứng phó, giảm thiểu tác động. Ông Nguyễn Minh Nhứt, Bí thư Huyện uỷ Trần Văn Thời, cho biết, Chỉ thị 09 ban hành phù hợp thực tiễn, tạo được sự đồng thuận, tham gia tích cực của các tầng lớp Nhân dân, tạo chuyển biến trong nhận thức, hành động của từng cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên... vì việc chung.

Ðảng tăng cường sức mạnh, dân đồng thuận làm theo

Trong quá trình chỉ đạo, điều hành bộ máy chính trị của Ðảng và Nhà nước, có những việc cần định hướng với tầm nhìn chiến lược dài hơi, có quá trình thực hiện mang tính giai đoạn; có những việc mang tính cấp bách, cần tập trung xử lý ngay, dứt điểm trong thời khắc nhất định. Song, tất cả đều hướng đến mục tiêu là nhằm lan toả chủ trương hợp lòng dân, sát thực tế, được cụ thể hoá đi vào đời sống Nhân dân, nâng cao nhận thức đúng đắn để cùng chung tay thực hiện nhiệm vụ chính trị với quyết tâm cao nhất vì sự an toàn, phát triển nhanh và bền vững của xã hội… Ðảng tăng cường sức mạnh, dân tin tưởng làm theo sẽ tạo nên nội lực vững chãi, vượt qua mọi khó khăn, thách thức.

Biển có vững, bờ mới yên - Bài cuối: Quân - dân nghĩa tình

“Trường Sa vì Tổ quốc”, “Cả nước vì Trường Sa”, những tiếng hô đồng thanh vang vọng giữa trùng khơi khi tàu rời cảng Trường Sa đã nói lên phần nào sự gắn bó máu thịt của tình quân - dân. Nghĩa tình ấy chính là sức mạnh để Trường Sa, vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, luôn luôn vững vàng nơi đầu sóng ngọn gió.

Biển có vững, bờ mới yên - Bài 2: Ðiểm tựa vững chắc của ngư dân

Mỗi điểm đảo trong chuyến công tác đều để lại trong tôi cũng như các thành viên trong đoàn những ấn tượng, cảm xúc thiêng liêng, tự hào. Quân dân Trường Sa không chỉ luôn kiên định, vững vàng, đoàn kết trong lao động, sản xuất, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc mà còn là điểm tựa vững chắc cho ngư dân vươn khơi bám biển.