(CMO) Đã từng có một thời, hầu hết những nông cụ sản xuất và các dụng cụ phục vụ đời sống của người dân làm bằng sắt thép, từ cây phảng, con dao phay, dao yếm, dao mác,… kể cả dao ăn trầu, đều làm từ bàn tay của những người thợ rèn. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, những nông cụ truyền thống ấy và dụng cụ đã dần dần được thay thế bằng những thứ ra đời từ máy móc, đẹp và rẻ. Nhưng nhiều người vẫn không quên những dụng cụ được làm từ bàn tay của người thợ rèn.
Những năm đầu sau ngày miền Nam giải phóng, là khoảng thời gian nghề rèn thịnh hành nhất. Khi đất nước không còn chiến tranh, bà con cùng nhau về miền quê lao động sản xuất, lo cho kinh tế gia đình và góp phần xây dựng quê hương. Những thửa ruộng, mảnh vườn bỏ hoang trong chiến tranh loạn lạc, được bàn tay những người lao động chăm chỉ hàng ngày phát dọn, trồng trọt. Kể cả những vùng đất bỏ hoang chưa khai phá cũng được khai hoang để trồng lúa hoặc lên liếp lập vườn. Một vài chiếc máy cày và những đôi trâu của một số ít chủ trâu thời ấy không thể đảm đương nổi những cánh đồng mà mỗi mùa diện tích lại được mở rộng thêm. Hơn nữa, đa số bà con nông dân thời ấy đều nghèo, nếu có đủ máy và trâu cày, nhiều người chưa chắc gì có tiền để thuê làm đất. Vì vậy, nhu cầu một lượng lớn những nông cụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp bằng thủ công, chủ yếu là phảng, dao các loại… các lò rèn không đáp ứng đủ, nhất là khi vào thời vụ.
Lò rèn trên sông. Ảnh minh hoạ: NHẬT MINH |
Nhiều người còn nhớ cái lò rèn của ông Sáu Lâm, ở vàm rạch Ba Chùa, thuở ấy nhộn nhịp ra sao. Ngày vừa hừng đông mà đã nghe tiếng quai búa đập vang xa cả một đoạn sông. Khách hàng đa số là những người từ Biển Bạch Tây, Biển Bạch Đông, Tân Bằng… ra chợ huyện ghé qua đặt hàng, lấy hàng, hay sửa nông cụ. Lò rèn nổi lửa là có xuồng ghé bến, nhộn nhịp suốt cả ngày… Nơi đây cũng là bến tàu đò chạy tuyến đường Cà Mau - Rạch Giá thường ghé đón và trả khách. Ở Thới Bình, ít ai không biết đến lò rèn ở vàm rạch Ba Chùa.
Nghề rèn là một nghề vất vả. Người thợ rèn hay những thợ phụ quai búa đập đều phải có sức dẻo dai và thân thể cơ bắp để làm việc từ hừng đông cho đến chiều tối. Sức nóng của miếng phôi thép được nung lên hàng ngàn độ và cái lò than lúc nào cũng đỏ rực từ người thụt ống bể bằng tay một cách điêu luyện. Người thợ cả là linh hồn của lò rèn, vừa có tính kiên nhẫn vừa khéo tay. Để có một sản phẩm ra đời, từ miếng phôi thép, phải trải qua nhiều công đoạn, như nung đỏ, đưa lên đe đập, đàn… để dần thành hình dạng của sản phẩm, rồi mài giũa, trui… Các lò rèn thường sử dụng nhiếp xe hoặc mảnh vỏ đạn 105 ly để làm phôi rèn.
Ngày trước, mỗi lò rèn cần có ít nhất 4-5 lao động. Ngoài người thợ cả còn có 2 thợ phụ quai búa, một người thổi bể và một người làm nguội, tức là làm láng, mài giũa. Người thợ cả thường có tuổi trung niên, bởi quá trình học việc và trở thành thợ cả phải trải qua nhiều năm, tích luỹ nhiều kinh nghiệm cho tay nghề. Những người còn lại trong lò rèn, chủ yếu là thanh niên trai tráng. Những người thợ làm việc cùng nhau thường tạo nên sự nhịp nhàng, ăn ý trong công việc. Từ miếng sắt thép bất kể kích thước, người thợ cả có thể tính ra rèn được những sản phẩm nào, từ đó chặt ra những miếng phôi vừa với khối lượng mà sản phẩm cần. Sau khi phôi được nung đỏ, thợ cả dùng kềm gắp đưa lên đe để thợ phụ quai búa đập. Những nhát búa mạnh mẽ, đều đặn, dứt khoát và đúng đích của 2 thợ phụ thay phiên nhau liên tục theo ý muốn của thợ cả qua sự dịch chuyển và trở qua, trở lại miếng phôi trên đe… Vậy là từ một miếng phôi thép, qua nhiều lần nung đỏ và đập, đàn, đã trở thành một sản phẩm cần thiết phục vụ quá trình lao động của con người! Mỗi ngày, trung bình một lò rèn có thể rèn được chục cây phảng.
Trước khi hoàn chỉnh một sản phẩm, phải qua khâu mài, giũa. Đây là khâu làm đẹp cho sản phẩm dưới bàn tay người thợ. Ngày trước, tất cả các khâu đều làm thủ công, cho nên mài là bằng đá mài và giũa thì bằng giũa bản. Sau cùng là đưa vào lò trui trước khi xuất xưởng. Cái tài của người thợ cả là trui cỡ nào thì vừa, không già hoặc không non lửa. Nếu già lửa thì khi sử dụng lưỡi sẽ giòn, dễ bị mẻ. Còn non lửa thì lưỡi bị mềm, mau lụt. Người thổi bể lò rèn cũng không phải là tay ngang, nghĩa là cũng phải qua luyện tập để rành công việc. 2 ống bể là nguồn cấp không khí cho lò đượm lửa. Khi cần tăng nhiệt độ nung thỏi phôi thép, thì 2 tay cầm 2 cây thụt ống bể phải làm việc liên tục. Nhưng quan trọng là thụt thế nào để ngọn lửa lò không phập phù mà lên thật đều, khó hơn học chèo xuồng nhiều!
Ngày trước, những người thợ rèn dù không giàu có nhưng cuộc sống đầy đủ. Nhà ông Sáu Lâm cũng là gia đình khá giả thời ấy. Ngày nay, qua một thời gian dài đất nước phát triển, cuộc sống của người dân cũng được cải thiện. Những nông cụ cho sản xuất thủ công ngày trước đã dần được thay thế bằng máy móc. Những cánh đồng ngày nay chủ yếu được làm đất bằng máy cày thay vì phảng phát cỏ ngày xưa, cùng những vuông tôm quanh mùa nhấp nhô sóng nước, đã kết thúc một thời kỳ người nông dân gắn liền với cây phảng và cây cào cỏ trên đồng ruộng.
Lò rèn của ông Sáu Lâm ở vàm rạch Ba Chùa ngày nay không còn ở vị trí cũ. Cái nền đất ở vàm rạch ngày nào một thời nhộn nhịp suốt ngày vang tiếng búa, nay đã sạt lở, không còn nhận ra. Con trai ông tiếp tục nối nghiệp ông, nhiều năm rồi dựng cái lò rèn ở ven lộ, bởi đường sông đâu còn xuồng ghe qua lại như xưa, khi đường lộ đã kết nối mọi nơi. Công việc xem ra nhẹ nhàng hơn ngày trước. Nhờ có điện lưới nên có thể sử dụng quạt tự chế để thổi lò thay cho người thụt bể. Khâu mài, giũa cũng bằng máy. Sản phẩm rèn chủ yếu bây giờ là các loại dao phục vụ nhu cầu cuộc sống của người dân trong vùng. Ngày nay, dù người ta bày bán rất nhiều loại dao bằng công nghệ đúc, mẫu mã đẹp, giá rẻ, nhưng nhiều người vẫn có thói quen sử dụng dao rèn, bởi nó bền, bén lâu. Như những thớt thị heo ở chợ chỉ dùng dao rèn, bởi xẻ thịt, chặt xương thoải mái. Nhờ vậy lò rèn của thế hệ hậu duệ ông Sáu Lâm, dù không còn nhộn nhịp như xưa nhưng vẫn thường đỏ lửa. Con cháu ông vẫn còn sống được với nghề rèn.
Nghề rèn đã qua thời kỳ thịnh hành và ngày càng thu hẹp. Rồi đến một lúc nào đó sẽ chấm dứt sự hiện diện của mình sau một giai đoạn trong quá trình phát triển của đời sống con người. Trên những cánh đồng ngày nay, nhiều công đoạn máy móc đã thay thế sức người nông dân. Cũng như một vài nghề khác, chẳng hạn như nghề đóng xuồng, rồi sẽ chỉ còn trong ký ức của một thời./.
Nguyễn Sông Trẹm