ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 24-11-24 11:30:28
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Quản lý đất công - chuyện như đùa ở Tân Phú

Báo Cà Mau (CMO) Hỏi cán bộ xã Tân Phú về khu vực đất công ở Tràm Thẻ giờ ít người biết rành vì lâu quá họ không nghe nhắc đến. Xem ra việc không biết đến cũng có căn cơ của nó. “Biết rồi thì sao? Ai dám mở môi?” (một cán bộ xin giấu tên bộc bạch).

Bài 2: Đất đâu "có cánh"

Sau khi làm việc với ông Võ Thanh Lâm, Bí thư Đảng uỷ xã Tân Phú, tôi ngỏ ý được tận mắt chứng kiến khu đất ấy. Ông Lâm gọi vài công chức khác đi cùng tôi nhưng họ đều không chắc mình biết.

Cả công chức địa chính (là người địa phương) cũng không rõ. Biện pháp cuối cùng, ông Lâm cử một công chức địa chính mới toanh (vừa luân chuyển về Tân Phú 3 tháng) dẫn tôi đến Trụ sở Sinh hoạt văn hoá ấp Tràm Thẻ. Ở đó, Bí thư Chi bộ ấp sẽ dắt tôi đi vào khu đất công này.

20 năm, 7 hộ canh tác 650 công đất

Sẽ không ai tin nổi, với số đất rộng 65 ha (650 công) mà chỉ vỏn vẹn 7 hộ thuê canh tác. Không phải vùng đất này khó khăn đến độ ai cũng “bỏ chạy” khi nghe nhắc tên. Mà phàm là nông dân “chính hiệu” thì ai lại chê đất ruộng!

Bao nỗi hoài nghi chỉ bằng thừa. “Lúc đầu mình ưu tiên cho cán bộ, sau này khi họ đầu tư kê bờ nên có đổi cho hộ khác cũng khó. Đó là sai lầm lớn”, ông Tư Trí (Nguyễn Thiện Trí), nguyên Chủ tịch UBND xã Tân Phú, phân trần.

Con lộ đất đỏ ven kinh xáng Bạch Ngưu chạy qua vùng Tràm Thẻ vẫn như xưa dù đã 20 năm tái lập xã Tân Phú.

Nỗi hoài nghi đầu tiên vừa được giải thích. Nay lại thêm những trăn trở khác: là “cán bộ” mà “mê” ruộng như nông dân? Đó là phúc chứ sao có thể là hoạ được? Lao động là vinh quang mà.

Không chờ lâu, tôi đặt câu hỏi về những vị thuê đất này, ông Võ Thanh Lâm cho biết: “Chuyện này để hỏi bên uỷ ban”. Nhưng khi nhấc máy điện hỏi thì ông vẫn chưa nắm rõ khu vực đất công của xã hiện những ai đang thuê và mỗi người thuê bao nhiêu. (Vì ông Lâm vừa về Tân Phú nhận nhiệm vụ. Bắt tay vào vị trí mới, ông giải quyết bao nhiêu công chuyện tồn đọng do các vị đồng cấp “tiền nhiệm” để lại - PV).

Tôi lại tìm gặp ông Ngô Hoà Dựa, nguyên Chủ tịch UBND xã, nguyên Bí thư Đảng uỷ xã Tân Phú, người từng đề đạt ý kiến thu hồi lại toàn bộ khu vực đất công cho thuê của xã (từ những năm đầu 2000 đến khi hết 2 nhiệm kỳ tại vị) để có phương án xử lý, canh tác khác. Nhưng cả thời gian giữ chức vụ Chủ tịch rồi bí thư Đảng uỷ xã, ông Dựa vẫn chưa thể thực hiện được nguyện vọng này.

Nghe tôi hỏi, ông Dựa kể như thuộc lòng: “Phần đất đó chỉ có vài người thuê thôi. Đó là ông Lê Thành Phố (Sáu Phố), nguyên Bí thư Đảng uỷ đầu tiên của xã Tân Phú, 100 công (sau này ông Phố nhượng lại một nửa cho ông Biện Văn Nhu); ông Biện Văn Nhu (Ba Nhu) đã thuê trước đó 70 công (tổng 120 công); ông Ngô Hoàng Diệu, nguyên Tham mưu trưởng Tỉnh đội, 150 công (sau này chia cho anh vợ là Trần Huệ Lai, ở xã Trí Phải, 25 công); ông Lý Văn Thái (Ba Thái), nguyên Trưởng Công an huyện Thới Bình, 75 công; ông Trần Thanh Nhàn, doanh nghiệp ở xã Tân Phú, 80 công; ông Quách Văn Gắn (Ba Gắn), từ Đầm Dơi lên cũng nhận 150 công…”.

Trong các vị này, ông Biện Văn Nhu từng là tâm điểm của giới truyền thông khi nhắc đến “gương điển hình” vươn lên từ vùng đất khó mà bao lượt đồng nghiệp tôi đã chấp bút.

Đó là chưa kể khi ngày đầu vận động, Nhân dân phản kháng quyết liệt, rốt cuộc phía UBND xã phải đề xuất đưa lực lượng vũ trang vào. “Đó là lúc Ban Quản lý dự án nhờ Tiểu đoàn U Minh 2 hỗ trợ. Bù lại, họ được nhận 150 công đất để canh tác. Bà con thấy bộ đội canh tác nên không còn phàn nàn. Sau này, khi “phá sản” đề án thì phần đất này lại bị “biển thủ”. "Thật đáng buồn”, một cán bộ từng công tác tại UBND xã Tân Phú (xin giấu tên) than thở.

Nghe đến đây, tôi chợt hiểu ra nguyên nhân một số cán bộ đương nhiệm ở xã Tân Phú ít ai bận tâm đến phần đất này. Bởi có biết, nhìn vào “danh sách” chủ thuê đất là những "chú Sáu", những "anh Ba", "anh Tám"... thì hở môi làm gì?

“Đã có nhiều lần UBND xã muốn thu hồi đất nhưng quyết tâm không cao nên thất bại. Thậm chí có lúc Chủ tịch UBND xã kế nhiệm đã đệ đơn thưa các hộ này đến Toà án Nhân dân huyện để đòi đất công”, ông Lâm cho biết.

Trong lần đòi đất phải ra toà ấy, phía UBND xã "thua" trắng tay (thay vì kiện ra toà việc các hộ này không thực hiện đúng hợp đồng như còn nợ tiền thuê đất. Còn việc thu hồi đất không cho thuê nữa là thẩm quyền của UBND xã).

Từ sau năm 2000, khi con tôm ngự trị vùng Tràm Thẻ thì đất ở đây bắt đầu đội giá. Chỉ tính sơ sơ, muốn thuê 1 công đất cũng phải bỏ ra 1 triệu đồng/năm. “Đó là giá rẻ nhất”, ông Đào Văn Liễu, 74 tuổi, khẳng định bằng kinh nghiệm mấy mươi năm gắn bó ở vùng đất này.

Chờ một quyết định...

Nghĩ đến 650 công đất của UBND xã Tân Phú mà xót xa mỗi năm chỉ thu 65 triệu đồng tiền thuê, trong khi cũng đất này có thể thu tiền thuê gấp 10-15 lần nếu đảm bảo đúng giá. Càng xót xa thêm khi ông Võ Thanh Lâm “bật mí” về nguồn tiền bảo trợ xã hội của xã Tân Phú, mỗi năm không quá 55 triệu đồng.

55 triệu đồng để lo cho trên 12.000 nhân khẩu trong 360 ngày về thảm hoạ, thiên tai… “Gói ghém lắm cũng vài trăm ngàn đồng một hộ với mỗi lượt hỗ trợ”, ông Lâm tính nhẩm.

Nếu xã cương quyết thu hồi 650 công đất đang cho một nhóm người thuê (được xứ Tân Phú gọi bằng cụm từ “các đại gia”) và cho thuê bằng giá với Nhân dân trong vùng thì chỉ riêng khoản thu này mỗi năm xã Tân Phú thực hiện công tác bảo trợ xã hội gấp 10 lần so với ngân sách chi.

Ai từng kinh qua những con số và phép tính cộng, trừ, nhân, chia sẽ phải hụt hẫng bởi sự khập khiễng giữa 100.000 đồng và 1 triệu đồng nhân lên 650 lần và nhân thêm cho 20 năm. Số tiền này có thể nâng Tân Phú về đích nông thôn mới mà không cần nhiều vào sự trợ lực “xã khó khăn”, vùng “đông đồng bào dân tộc”.

Tuy mới nghe, mới chứng kiến sự khập khiễng này, nhưng so lại những gì các vị đồng nghiệp tôi ca tụng về tấm gương "anh Ba Nhu" thu nhập trên vùng đất cầm trâu mỗi năm vài trăm triệu đồng thì không còn gì ngỡ ngàng nữa. Trong khi cách khu đất ông Ba Nhu thuê của xã với giá không thể rẻ hơn là những xóm nghèo mang tên Tapasa.

Song song với những “dự tính trục lợi” riêng của một nhóm cá nhân là đông đảo những hộ nông dân đầy lòng vị tha. Tôi từng hỏi, khu đất 650 công do đâu mà có? Đó là khu đất khi vận động Nhân dân về khai hoang, làm dự án ngọt hoá Nhà nước đã cắt phần hậu đất của họ. Những hộ dân bị cắt phần hậu đất giờ không còn màng đến chuyện đòi lại. Họ cũng chẳng đặt vấn đề được Nhà nước thu hồi trả lại phần thành quả lao động của họ, có người mất cả 50 công như ông Liễu, cũng có người ít hơn nhưng cũng không dưới 15 công như ông Ba Cao (Trần Phi Cao).

Đồng cảm với những người tạm gọi là “mất đất”, các vị nguyên là chủ tịch, nguyên bí thư Đảng uỷ xã Tân Phú như ông Nguyễn Thành Hánh, Nguyễn Thiện Trí cũng mong mỏi sớm thu hồi phần đất này để lo chuyện an cư cho dân nghèo.

“Chỉ tính sơ bộ, 650 công đất khi thu về sẽ giải quyết được cho 130 hộ nghèo (mỗi hộ 5 công). Việc này cũng sẽ giải quyết ổn thoả hộ nghèo trong xã để cùng nhau vươn lên xã nông thôn mới”, ông Nguyễn Thiện Trí nhẩm tính.

Trao đổi vấn đề này với ông Võ Thanh Lâm, ông cũng nghĩ như vậy: “Đảng uỷ từng nghĩ thế, nhưng đã phản ánh về huyện nhiều lần vẫn chưa có kết quả. Xã hiện có 366 hộ nghèo, kể cả hộ đồng bào dân tộc và hộ gia đình chính sách”.

Nghĩ về phương án đầy tính nhân văn này, ông Nguyễn Văn Quẻm, Bí thư Chi bộ ấp Tràm Thẻ, bật điện thoại hỏi Trưởng ấp rồi ông quay lại thông tin: “Tràm Thẻ có 248 hộ dân, trong đó có 30 hộ nghèo (17 hộ thuộc diện không đất sản xuất). Nếu tính vậy coi bộ hợp lý”.

Sẽ không khó khăn nếu có quyết tâm cao. Bởi minh chứng cho điều này là việc UBND xã Tân Phú đã từng thu hồi 13,2 ha (132 công) phần đất của ông Quách Văn Gắn (ông Gắn thuê 15 ha) để đổi đất khác xây dựng trụ sở trạm y tế xã và trụ sở UBND xã hiện hữu. “Đổi khu vực đất để xây dựng trạm y tế xã theo tỷ lệ 1/10, nghĩa là 10 công vuông tôm đổi 1 công để thuận tiện xây dựng. Đã tiến hành đổi 52 công (52.000 m2 lấy 5.200 m2). Xây dựng trụ sở UBND xã 10.000 m2, đã tiến hành đổi theo tỷ lệ 1/8 (1 công đất xây trụ sở UBND đổi 8 công vuông) 80.000 m2”, ông Lâm cho biết.

Đồng thời, theo dự tính của xã Tân Phú, nếu thu hồi được phần đất này, ngoài cấp đất sản xuất cho hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc khó khăn và hộ gia đình chính sách khó khăn, xã sẽ xin chủ trương đổi tiếp phần đất đảm bảo xây dựng trụ sở trung tâm sinh hoạt văn hoá xã theo chuẩn nông thôn mới.

Nhưng tính hợp lý của nó vẫn còn đang phải chờ UBND huyện xử lý và hướng dẫn việc thu hồi đất công của xã. Đặt trường hợp ngược lại, Tân Phú sẽ không còn quỹ đất công này vĩnh viễn?

Phóng sự điều tra của Ngọc Hùng

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài cuối: Thầm lặng việc thiện nguyện

Gương mặt đôn hậu, nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi là điều dễ tạo thiện cảm với bất cứ ai khi gặp cô Phạm Thị Ngọc Thảo, giáo viên Trường Tiểu học Phường 6/2, TP Cà Mau. Nhiều năm duy trì “Tủ bánh mì yêu thương”, lặng thầm trao hàng trăm món quà thiết thực tới những hoàn cảnh kém may mắn, cô Thảo cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sẻ chia.

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài 2: Người gieo hạnh phúc

Mỗi ngày trôi qua, trên khắp quê hương Cà Mau xuất hiện nhiều tấm gương bình dị mà cao quý. Ðó là câu chuyện của người phụ nữ vượt qua nỗi đau của bản thân để dìu dắt những người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, là câu chuyện của những cựu chiến binh giàu nghĩa cử cao đẹp... Họ thầm lặng đóng góp cho đời, gieo hạt giống yêu thương, điểm tô cho cuộc sống thêm những gam màu tươi sáng.

Tô thắm vườn hoa tử tế

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nói, xã hội ta có rất nhiều những tấm gương người tốt, việc tốt. Họ có mặt khắp nơi, đó là những bông hoa đẹp trong rừng hoa đẹp. Ðiều đó được minh chứng ở Cà Mau, nơi tình đất - tình người bền chặt thuỷ chung, sâu nặng nghĩa tình. Trong hành trình phát triển quê hương, bằng những việc làm trượng nghĩa, người Cà Mau đã tô thắm thêm vườn hoa tử tế, làm lay động bao trái tim và lan toả giá trị sống tốt đẹp.

Cửa Lớn mở tương lai

Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài cuối: Bàn về giải pháp

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ người hoạt động ở ấp, khóm kế cận ở Cà Mau đầy sinh động, với nhiều cách làm hay, kinh nghiệm hữu ích. Bằng việc kết nối, đảm bảo tính kế thừa để phát huy tối đa những ưu điểm, bổ trợ những hạn chế giữa các thế hệ; đội ngũ này vừa ổn định vừa có những điểm sáng đột phá gắn với xu hướng trẻ hoá, chuẩn hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển khởi sắc của tỉnh nhà cũng đang tạo ra môi trường tốt để nhiều người trẻ chọn trở về gắn bó lập thân, lập nghiệp.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài 2: Những tín hiệu tích cực

Năng nổ, nhiệt huyết, nhạy bén và dám nghĩ, dám làm đang là những ghi nhận, đánh giá của các cấp uỷ đảng, chính quyền và Nhân dân khi nói về những người trẻ tuổi hoạt động ở ấp, khóm. Không khí tươi mới với nguồn năng lượng tích cực của đội ngũ trẻ đã thực sự trở thành điểm sáng ở nhiều địa bàn ấp, khóm ở Cà Mau trong hành trình phát triển. Ðó cũng là gợi ý hữu ích để Cà Mau tiếp tục công việc chuẩn hoá, trẻ hoá; tăng cường chất lượng và xây dựng đội ngũ kế thừa đảm đương nhiệm vụ ở khóm, ấp trong bối cảnh hiện nay.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng

Thực tế đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở ấp, khóm trong việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Ðây là cánh tay nối dài của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp, sâu sát nhất với Nhân dân. Mọi chuyển động của cấp “cơ sở của cơ sở” sẽ quyết định đến việc thành hay bại của một quyết sách, một chủ trương, một phong trào... gắn với nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của từng địa phương.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.