ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 20-9-24 08:23:07
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Tâm tình người cận vệ

Báo Cà Mau (CMO) Trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt (1959-1975), để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho Bí thư Sài Gòn - Gia Ðịnh, Bí thư T3…, Văn phòng Khu uỷ đã thành lập Ðội cận vệ (bảo vệ). Sau ngày đất nước thống nhất, Ðội được cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đặt tên là Ðội cận vệ A6.

Dù nay tuổi đã cao, nhưng ký ức về thời hào hùng theo chân bác Kiệt từ miền Tây lên phụ trách Khu uỷ Khu Sài Gòn - Gia Ðịnh cho đến năm 1975 mãi còn trong ký ức của những chiến sĩ A6 kiên trung.

Ðội A6, luôn sát cánh với Bí thư Khu uỷ Sài Gòn - Gia Ðịnh, Bí thư T3, họ gần như đã đi hầu hết các chiến trường Nam Bộ: từ R (Trung ương Cục miền Nam ở Tây Ninh) xuống T4 (Khu Sài Gòn - Gia Ðịnh) qua miền Ðông, rồi xuống T3 (Tây Nam Bộ), sau đó quay về R và tiến về Sài Gòn.

“Khi tham gia công tác, hầu hết chúng tôi đều rất trẻ, có người mới 16 tuổi, nhưng rất hăm hở”, ông Trần Quốc Anh, nguyên cán bộ A6 giai đoạn 1962-1975, năm nay đã ngoài 80 tuổi, sinh sống ở Phường 5, TP Cà Mau, nhớ lại.

Vốn dĩ người gốc miền Trung (Ðà Nẵng), năm 1959, vì hoàn cảnh gia đình, ông Quốc Anh cùng gia đình vào Sài Gòn. “Vào Sài Gòn, tôi ở nhờ nhà của người bà con là bác Sáu Hoa - Phạm Văn Hoa (nay nhà ở đường Nơ Trang Long, Phường 11, quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh). Mãi sau này (năm 1967) khi bác Sáu Hoa giới thiệu tôi tham gia công tác ở lực lượng Khu uỷ Sài Gòn - Gia Ðịnh, tôi mới biết căn nhà bác Sáu Hoa là cơ sở mật, từng nuôi chứa, che chở và tạo điều kiện hoạt động cho các đồng chí: Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt”, ông Trần Quốc Anh nhớ lại.

Khi vào công tác ở Khu uỷ Sài Gòn - Gia Ðịnh, ông Trần Quốc Anh làm cán bộ văn phòng, phụ trách tài chính và kết nối với gia đình bác Sáu Hoa để đảm bảo an toàn cho các hoạt động Khu.

Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, ngoài tên gọi được người dân kính nể, còn có các bí danh đi vào lòng người: Chín Dũng, Tám Thuận, Sáu Dân. Ông Trần Quốc Anh nhớ như in: “Tôi biết chú Sáu Dân ở Sài Gòn hồi năm 1963, năm 1967 tôi vào Cứ Sài Gòn - Gia Ðịnh (ở Dầu Tiếng, Tây Ninh) để công tác ở Ðội Bảo vệ (sau này có tên A6) được tập thể giao nhiệm vụ chăm sóc chú Sáu Dân. Khi vào đến cứ, được gặp chú, tôi vui mừng không thể tả”.

Cũng đã bước sang tuổi 70, nhưng mỗi khi nhắc đến giai đoạn 1969-1975 tham gia đội cận vệ A6, bà Lê Thị Hà Nương, nay cư ngụ Phường 8, TP Vĩnh Long, vẫn nhớ rõ: “Cuối tháng 7/1969, tôi 16 tuổi, được ba dắt đến cứ của cơ quan an ninh. Ba tôi, lúc đó là Phó ban An ninh của huyện Vũng Liêm (tỉnh Vĩnh Long), giới thiệu tôi với các chú, bác thuộc một đơn vị khác. Tôi chỉ biết ba gửi vào công tác đó là một đơn vị thuộc R (Trung ương Cục miền Nam), và khi bắt tay vào công tác, tôi mới biết đó là đơn vị bảo vệ đồng chí Võ Văn Kiệt”.

 Bà Lê Thị Hà Nương (phải) cùng đồng đội chụp ảnh lưu niệm với cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong lần họp mặt Văn phòng Khu uỷ lần thứ nhất (Ảnh do bà Lê Thị Hà Nương cung cấp)

Nhắc về người đồng đội Hà Nương, ông Trần Quốc Anh cười khà: “Ðó là cô đồng đội nhỏ tuổi nhất, nhì của đơn vị thời điểm năm 1969-1970. Cô ấy được huấn luyện, học tập làm y tá rồi sau này trở thành bác sĩ”.

Không giấu niềm xúc cảm khi nhắc về quá khứ hào hùng, bà Nương trần tình: “Dù thân gái, nhưng ngày ngày vẫn theo các anh, các chú hành quân qua nhiều vùng đất lạ. Dần quen với cơm vắt, muối tiêu, băng sông, lội ruộng… Nhiều lúc nhớ mẹ, nhưng chỉ lén lau vội nước mắt. 6 năm cùng A6 (1969-1975), tôi đi khắp đồng bằng châu thổ. Lắm khi mẹ ở quê nhớ con thì lặn lội giang đò, chèo xuồng tận Cà Mau để thăm. Mỗi chuyến thăm, mẹ ra về tôi lại ngồi nhớ, rồi khóc”.

Ngoài những kỷ niệm của một thời hiên ngang, anh dũng cùng đồng đội A6, bà Nương còn có một kỷ niệm sâu sắc hơn nữa, đó là mối tình với người đồng đội - ông Nguyễn Hoàng Việt, quê ở Trà Vinh, từng là Tiểu đội trưởng của A6 giai đoạn 1969-1975. Và mãi sau này, khi đất nước hoà bình, hai người kết hôn và chung sống vui vầy bên mái ấm gia đình ở TP Vĩnh Long.

Nhắc về những kỷ niệm “khắc cốt ghi tâm” với chú Sáu Dân, ông Trần Quốc Anh nghẹn ngào: “Có lần hành quân phục vụ cho tiến công, tôi phụ trách đeo máy truyền tin. Nhưng hành quân đêm, không thuộc đường, bị lạc đơn vị. Khi tìm gặp, chú Sáu Dân không những không rầy mà còn động viên. Khi tôi bị bệnh ở Bến Tre, chính chú Sáu đã chỉ đạo đưa tôi về Sài Gòn chữa trị vì nơi ấy có đủ điều kiện. Sau khi khoẻ lại, chú Sáu đã cho đón tôi về T3 ở Cây Tàng, xã Quách Văn Phẩm, huyện Ðầm Dơi, cơ quan Khu uỷ đang đóng ở đó (nay thuộc xã Tân Tiến, huyện Ðầm Dơi, tỉnh Cà Mau). Tôi về nhận nhiệm vụ Trưởng ban Hậu cần của đơn vị”.

Khề khà lục lại trí nhớ của tuổi già, ông Quốc Anh kể tiếp: “Và một lần “bị” chú Sáu rầy khiến trong lòng áy náy. Ðó là thời điểm Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng (lúc 9 giờ 30 ngày 30/4/1975), chú Sáu kêu tôi và anh Tư Nhơn vào ngay Sài Gòn rồi nhờ người lái xe rước anh em, bởi tôi hiểu địa bàn thành phố.

Ông Trần Quốc Anh, dù đã ngoài 80 tuổi nhưng vẫn vẹn nguyên những ký ức về vị lãnh đạo gần gũi Võ Văn Kiệt. Ảnh: PHONG PHÚ

Chúng tôi đến xa lộ Ðại Hàn, gặp chiếc xe của địch bỏ lại nhưng không có ai lái, tôi nhờ hai anh xe honda ôm chạy chiếc xe của địch chở anh em về trường Pétrus Ký (nay là trường Lê Hồng Phong), nơi tập kết của các cơ quan Thành uỷ TP Sài Gòn - Gia Ðịnh. Ðến nơi, hai anh tài xế từ giã. Khi nghe tôi báo cáo, chú Sáu hỏi: “Mày có trả tiền cho hai anh lái xe không? Tôi trả lời: “Dạ không có”. Chú Sáu nhìn tôi: “Phải trả tiền công cho người ta mới được, tội nghiệp, họ làm thuê cực khổ lắm”. Sự việc này tuy không lớn nhưng lắng đọng trong tôi bài học đối xử với người nghèo của chú. Dù hoàn cảnh nào, chú vẫn quan tâm đến đời sống người dân, nhất là người lao động nghèo".

Thời gian quân quản ở Sài Gòn, cơ quan chúng tôi phải di chuyển đến nhiều nơi ở mới. Cứ mỗi lần dời cơ quan, chú Sáu lại dặn không được lấy theo bất cứ thứ gì, kể cả dụng cụ nấu nướng, mà phải bàn giao đầy đủ, nguyên vẹn cho đơn vị mới”.

Những người đồng chí, đồng đội A6 năm xưa giờ đều là bậc cao niên. Họ sinh sống, công tác, lập nghiệp ở nhiều tỉnh, thành. Riêng ông Trần Quốc Anh sau này (năm 1980) xin phép đơn vị được về lập nghiệp và xây dựng tổ ấm ở Cà Mau cho đến ngày nay.

Cuộc hành quân ngàn ngày của A6 khắp miền Tây, Ðông Nam Bộ không những xây dựng hoàn thành trên dưới 60 căn cứ liên hoàn ở Củ Chi, Trảng Bàng, Bến Cát, Mỹ Tho, Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau, mà đơn vị còn xây thành công biết bao căn cứ ở lòng dân! Riêng mảnh đất Cà Mau, theo dấu chân chú Sáu Dân và Ðội A6, có cả thảy 3 căn cứ ở Ðầm Dơi, Trần Văn Thời, U Minh, trong khoảng thời gian từ 1970-1973.

Những người chiến sĩ A6 năm xưa, nay có dịp về vùng đất Cà Mau yêu dấu, ai nấy đều chầm chậm lại để nhớ, để tìm những chứng nhân, những dòng kênh, bờ đập. Riêng người chiến sĩ từng trải, nhiều năm gắn bó cùng đơn vị và chú Sáu Dân như ông Trần Quốc Anh vẫn vẹn nguyên một lòng kính mến: “Cái sâu thẳm nhất ở chú Sáu là lo cho dân nghèo, lúc nào, ở đâu chú Sáu cũng nhắc. Hay tin chú Sáu qua đời, tôi đến dự lễ tang mà không cầm được nước mắt”./.

 

Phong Phú - Trúc Thi

 

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài cuối: Chìa khoá mở rào

Ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo hiện nay được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững trên tất cả các lĩnh vực. Ðối với 2 ngành hàng chủ lực là con tôm và con cua, càng phải đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới, sáng tạo để tạo bước đột phá vượt qua khó khăn, tiến tới phát triển bền vững.

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực - Bài 2: Vào chặng đường "địa hình"

Vài năm gần đây, 2 ngành hàng chủ lực của tỉnh đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Ðường đua trên thị trường của tôm, cua Cà Mau đang bước vào chặng “vượt địa hình” do biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả của các quốc gia trong khu vực và quốc tế...

Thay đổi để phát triển bền vững ngành hàng chủ lực

Tôm, cua Cà Mau là 2 ngành hàng chủ lực nâng cao đời sống của đại bộ phận người dân trên địa bàn tỉnh, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của ngành thuỷ sản tỉnh nhà nói riêng, cả nước nói chung. Tuy nhiên, những năm gần đây, 2 mặt hàng này đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, cần có sự thay đổi nhanh, toàn diện để tạo đột phá và phát triển bền vững.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài cuối: Xứng đáng với vai trò, trọng trách

Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, chất lượng hoạt động của HÐND 3 cấp tại Cà Mau đã trở thành quyết tâm, xu thế để đại biểu dân cử, cơ quan dân cử xứng đáng với vai trò, trọng trách được cử tri tin tưởng trao gởi. HÐND các cấp của vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc đang ra sức phụng sự, phấn đấu, cống hiến vì mục tiêu xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài 3: Tiếp xúc cử tri “đúng người, đúng việc, đúng vai”

Ông Nguyễn Tiến Hải, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HÐND tỉnh Cà Mau, từng rất trăn trở: “Tiếp xúc cử tri mà cán bộ nhiều hơn dân thì chưa đúng người, đúng việc, đúng vai. Tình trạng này phải chấn chỉnh ngay, phải để tiếp xúc cử tri là nơi thể hiện quyền làm chủ thật sự, thực chất của Nhân dân; để bà con cử tri đóng góp ý kiến, đề đạt tâm tư, nguyện vọng và hiến kế góp phần vào sự ổn định, phát triển chung của địa phương”.

Hành trình của khát vọng và hành động - Bài 2: Giám sát có trọng tâm, trọng điểm

Giám sát là hoạt động quan trọng của HÐND các cấp, góp phần xác định vị thế, năng lực hoạt động của đại biểu dân cử, cơ quan dân cử, tạo dựng niềm tin và sự tín nhiệm đối với cử tri. Giám sát có trọng tâm, trọng điểm; đa dạng hình thức giám sát, được đo đếm bằng kết quả thực tế, sự đánh giá của cử tri chính là nỗ lực, mục tiêu mà các cấp HÐND tỉnh Cà Mau đang dồn sức thực hiện.

Hành trình của khát vọng và hành động

HÐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân; thay mặt Nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương bằng việc ban hành các nghị quyết tại các kỳ họp trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội, quốc phòng - an ninh và trong phạm vi thẩm quyền theo quy định pháp luật.

“Thắng giặc nghèo” không khó - Bài 2: Linh hoạt với những mô hình hiệu quả

Giai đoạn 2020-2025, Cà Mau có nhiều cách làm chủ động, linh hoạt trong thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững. Nhiều mô hình trồng trọt, chăn nuôi, chuyển đổi nghề hiệu quả, hàng loạt kế hoạch đào tạo lao động tại địa phương đã giúp người dân vượt khó vươn lên, mang tính thực tiễn cao.

“Thắng giặc nghèo” không khó - Bài cuối: Nhìn từ thực tế

Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, đến năm 2022 Trung ương mới bắt đầu phân bổ kế hoạch vốn và ban hành các văn bản hướng dẫn, tổ chức thực hiện. Dù còn gặp nhiều khó khăn về cơ chế, chính sách, các hướng dẫn từ Trung ương chưa đầy đủ, kịp thời nhưng được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HÐND, UBND tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành cấp tỉnh, cùng với sự nỗ lực của địa phương và người dân, các hoạt động thuộc chương trình đã và đang triển khai thực hiện cơ bản đạt mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.

“Thắng giặc nghèo” không khó

Với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền, sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, nhất là sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của người dân, các chính sách giảm nghèo được triển khai thực hiện đồng bộ trên địa bàn tỉnh, mang lại kết quả tích cực. Nhiều hộ nghèo, cận nghèo sau khi thoát nghèo có cuộc sống ổn định, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng lên.