ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 28-11-24 04:55:49
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Về thăm Xóm Rẫy

Báo Cà Mau (CMO) Xóm Rẫy như một ốc đảo cô độc, bao quanh bởi những con sông, rạch, dừa nước, mắm và đước. Vượt qua một chuyến phà và một lần đò mới đến được Xóm Rẫy. Vài căn nhà lá thấp lè tè hiện lên thấp thoáng sau rặng dừa nước. Khi con nước ròng, nước trên sông Đầm Chim giựt mé, mấy con cá thòi lòi, bống sao chạy mãi miết mỗi khi xuồng cặp bến. Nhà nào cũng có cây cầu dưới bến thật dài, leo lên như đi leo thang trông. Bãi bồi mênh mang theo triền sông, là nơi “tập đoàn hái lượm” bắt đầu cuộc mưu sinh của mình ở đó mỗi ngày.

Xóm Rẫy thuộc ấp Hiệp Dư, xã Nguyễn Huân, huyện Đầm Dơi. Cụm dân cư ven sông này hình thành từ năm 1992. Ông Thái Thanh Long, Bí thư Chi bộ ấp Hiệp Dư cho hay, lúc trước ở đây toàn là rừng đước, mắm, 19 hộ dân tứ xứ về đây sinh sống, không có nghề nghiệp, ở đậu, bám lấy bìa rừng, bãi sông mà sống.

Đoàn người đi bắt sản vật từ vỏ lãi lên bờ.

Rồi nhà nước cấp khoảng 4 ha đất cho 19 hộ này trồng rẫy, làm kế sinh nhai nên từ đó có tên là Xóm Rẫy. Do điều kiện tự nhiên không thuận lợi, nên dần dà không ai trồng rẫy nữa. Ngày thì họ đi mò cua, bắt ốc len, chem chép, vọp; đêm thì đi soi ba khía. Đến năm 1997, khi cơn bão số 5 đi qua, người dân Xóm Rẫy đã nghèo lại càng khó khăn hơn... Đến nay, Xóm Rẫy có 117 hộ thì có đến 61 hộ nghèo và 7 hộ cận nghèo. và trong số đó có tới... 80 hộ không có đất ở.

“Nghèo bền vững”

Tờ mờ sáng, những người trong “tập đoàn hái lượm” gọi nhau í ới, người mang can nhựa cắt miệng, người mang đào đất, đèn pin để vào rừng đào, bắt sản vật. Nhà nào có xuồng máy thì tập hợp bà con không có phương tiện lại đi chung rồi chia tiền xăng. Đến chiều, mấy chiếc vỏ lãi cập bến nhà bà Ba Bánh Tét, thấy mặt người nào người nấy sáng rỡ, miệng cười tới mang tai là biết bắt được nhiều; người nào bắt được ít thì mặt mày buồn rượi như gà mắc mưa.

Bà Ba Bánh Tét tươi cười mua sản vật người dân vừa đánh bắt.

Đổ đống chem chép, ốc len ra sàn, kêu bà Ba cân lẹ để về mua gạo nấu cơm, chị Trần Thu Phượng cười nói: “Bữa nay đi tuốt dưới Gành Hào bắt được cũng bộn, cỡ trăm ngoài hai trăm, trừ tiền xăng chắc cũng được năm ký gạo à”. Chị Phượng thuộc diện hộ nghèo ở Xóm Rẫy. Chị và đứa con gái 15 tuổi hằng ngày lội dưới bùn sình, quanh quẩn dưới góc đước, gốc mắm để bắt chem chép, ốc len, nuôi sống cả nhà 4 miệng ăn. Chồng chị thì 3 – 4 thứ bệnh trong người, không làm lụng gì phụ vợ được. Cả gia đình cất nhà ở đậu trên đất của người dì.

Bà Ba Bánh Tét phụ chị lựa ra rồi cân được 2 ký 2 chem chép, 1 ký tư ốc len, 2 ký vọp. Tính tiền xong, bà Ba giải thích: “Nói “tập đoàn hái lượm” cho "oai" vậy thôi chớ thực ra đó là mấy người đi mò cua bắt ốc ở bãi bồi và trong rừng để kiếm sống. Họ đi theo đoàn cho đông vui, mỗi đoàn có khi 5 – 6 người, có khi mười mấy, mấy chục người. 5 – 6 giờ sáng là có người chạy vỏ lãi chở họ ra đó bắt, đến 2 – 3 giờ chiều thì chở về, rồi cân bán lại cho tui với ông Đương dưới đầu doi”.

Bà Ba Bánh Tét là một trong những người trải qua thăng trầm theo con nước lớn, nước ròng của con sông Đầm Chim. Gắn bó với Xóm Rẫy 21 năm qua, bà vẫn nhớ nhi in những chuỗi ngày khi mới về đây lập nghiệp. Bà tên thật là Trần Thị Bền, quê ở huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Năm bà 38 tuổi, hai bàn tay trắng với 3 bộ đồ, cặp nách ba đứa con nhỏ trôi dạt xuống tận Năm Căn. Sau đó, bà tái giá và cùng các con về Xóm Rẫy sinh sống.

Lúc mới về đây, cả nhà bà cũng vào rừng, đi men sông lượm bắt. Có được số vốn, bà gói thêm bánh dừa, bánh tét, bơi xuồng qua sông đi bán. Từ đó, người ta đặt cho bà là bà Ba Bánh Tét. Bây giờ bà không còn đi bán bánh nữa, ai đặt bánh thì làm rồi giao cho người ta và mở điểm cân các sản vật do người dân đánh bắt được để bà con đỡ tốn chi phí tiền xăng dầu đi xa để bán. Mỗi ngày, sau khi bà con đi bắt về, cân tính xong xuôi rồi bà gởi xe giao cho mối chở lên Sài Gòn.

Bà Ba tâm sự: “Lúc trước, bà con đi bắt vòng vòng đây thôi mà cân không xuể, có khi một đêm cả tấn ba khía, mấy trăm ký vọp, chem chép, ốc len, mà lúc đó thì giá rẻ. Còn bây giờ giá cao nhưng bà con bắt không còn nhiều, mỗi ngày tui cân được chừng 50 ký. Bữa nào khá thì mỗi nhà dư sáu bảy chục ngàn, có khi đi bắt không được nhiều, lỗ tiền xăng. Thấy mấy đứa nhỏ lội đi bắt, mình mẩy sình bùn mà không được bao nhiêu, tui cũng cho thêm hai ba chục ngàn về cho nó mừng. Tội nghiệp”.

Bà Ba vừa nói xong, anh Trịnh Tâm Anh cùng vợ và con gái vừa về tới, lỉnh kỉnh xách can nhựa, bọc đựng đèn, ca nước lên nhà kêu bà Ba cân lẹ. Tính tiền xong, được hai trăm mốt, con gái được 54 ngàn đồng, bà Ba cho thêm 26 ngàn cho chẵn 80 ngàn, con nhỏ mừng hết biết, chạy đi khoe. Anh Tâm tâm sự: “Hai chị em nó sinh đôi, hai chị em đi học cùng lúc. Đứa chị thì năm nay học lớp 6, đứa em thì nghỉ học năm rồi, đòi theo vợ chồng tui bắt chem chép, ốc len kiếm tiền. Tội nghiệp, đi bắt về, chia tiền lại cho chị hai đi học. Sang năm chắc nhỏ chị cũng phải nghỉ học, chớ kiếm sống qua ngày còn không nổi, sao nuôi nổi tụi nhỏ đi học. Bây giờ thì nó thấy đi mò cua, bắt ốc là vui, chớ lớn lên rồi nó mới hiểu như vậy là cực khổ. Nhà không có cục đất chọi chim, chỉ biết đi mò cua bắt ốc kiếm sống, càng ngày càng phải đi xa bắt mới có, tới lúc không còn con sò, con ốc nữa chắc bỏ đi xứ khác kiếm sống”.

Bà Ba chỉ sang anh Trần Văn Bạc: “Có thằng Bạc là không có vợ con, sống mình ên khỏe re”. Anh Bạc quay qua cười sượng ngắt: “Chớ có tiền đâu mà cưới vợ. Con gái bây giờ khoái mô-đen, lấy người có nghề nghiệp đàng hoàng, chớ như tui ai thèm”. Ngày nào tay chân cũng lắm lem bùn đất, da đen thui, tóc hôi nắng thì có ai chịu làm vợ những người như anh Bạc. Dù đã 34 tuổi, nhưng anh cũng không dám mơ tưởng đến ai vì chuyện lấy vợ đối với anh dường như quá xa vời. Ở Xóm Rẫy, con gái mới mười bảy, mười tám là đã “lên xe bông”, ở bên kia sông hoặc xứ khác, chớ ít có ai lấy người trong xóm. Vì con trai Xóm Rẫy nghèo quá, nên “ở giá” đến 34 tuổi như anh Bạc là chuyện thường.

Nhọc nhằn tìm con chữ

Tiếng cười nói ở nhà bà Ba Bánh Tét thưa dần, ai về nhà nấy nấu bữa cơm chiều. Nhà nào xa có con đi học thì chạy xuồng đi rước. Nhà gần thì mấy đứa nhỏ lội bộ về. Con lộ đất trước nhà bà Ba dài chừng 70 m thuộc diện "sang nhất xóm". Mấy đứa nhỏ đi học cũng đỡ… sứt dép. Còn lại hơn 4 cây số là đường đất chông chênh, nhô lên, lõm xuống, cỏ mọc sát hai bên mé, chỉ còn đường đi nhỏ xíu, có đoạn sóng vỗ sạt cả mé bờ.

Lớp học điểm Đầm Chim chỉ có vài em học sinh.

“Mùa nắng này thì đỡ, mùa mưa đường lầy lội, cỏ quẹt mình mẩy dơ hầy. Mấy đứa nhỏ vô lớp chân sình bùn dày cộm như mang guốc. Buổi sáng nước ròng, học sinh đi học từ dưới xuồng leo lên bờ như leo cầu thang, tui còn ngán huống hồ gì mấy đứa nhỏ. Nhà ai cũng nghèo, cha mẹ tụi nó cho đi học để biết chữ với người ta. Ở đây không đứa nào học cao hơn lớp 7”, ông Lê Hoàng Cương, Phó trưởng ấp Hiệp Dư, ngao ngán.

Trường Tiểu học Hố Gùi, điểm Đầm Chim, được xây dựng năm 2008, có 4 phòng học và 1 phòng cho giáo viên ở lại. Năm nào học sinh đi học nhiều thì mở dạy được 5 lớp, năm nay nhiều em nghỉ học do hoàn cảnh quá khó khăn, nên trường chỉ vận động đến trường được 4 lớp với 4 giáo viên và 45 học sinh; trong đó có khoảng 20 em là học sinh nghèo, cận nghèo. Trường có 15 em đi học bằng đò, số ít thì cha mẹ đưa bằng xuồng, còn lại là đi bộ đến trường. Mỗi bận đò 5.000 đồng, em nào xa quá thì 6.000 – 7.000 đồng.

Đường đến trường Tiểu học Hồ Gùi điểm Đầm Chim còn nhiều khó khăn.

Thầy Phạm Đông Mãi, một thầy giáo trẻ gắn bó với ngôi trường điểm lẻ này hơn 5 năm qua, hằng ngày nhìn các em nhọc nhằn đến lớp mà vẫn hồn nhiên vui cười, lòng thầy thắt lại. Thầy Mãi buồn bã nói: “Nhờ trường điểm chính đạt chuẩn quốc gia nên trường điểm lẻ ở Xóm Rẫy cũng được xây sân gạch cho các em vui chơi và sửa sang lại lớp học chút ít. Mỗi tháng các em thuộc diện hộ nghèo và các em đi đò được hỗ trợ 15 ký gạo. Bây giờ tôi chỉ mong xây được cầu bến kiên cố cho các em đi đường sông lên xuống được an toàn và xây được con lộ cho các em đến trường bớt vất vả hơn”.

Có lẽ học sinh Xóm Rẫy thuộc diện “ra trường” nhanh nhất. Duy chỉ có đứa con trai bà Ba Bánh Tét là sinh viên duy nhất ở Xóm Rẫy. Bà Ba đã ngấm cái phận khổ sở khi không biết con chữ, phải đi chăn trâu từ nhỏ nên bà gởi đứa con trai út về quê ngoại ở Bạc Liêu đi học. Tốt nghiệp phổ thông, thi đậu vào Khoa cơ khí Đại học Công nghệ TP. HCM với 18 điểm, Nguyễn Hoài Phong như một điểm sáng trên con đường học vấn ở Xóm Rẫy. Bà Ba thở dài: “Học trường tư nên học phí cao, rồi tiền trọ, ăn uống, đi lại, mấy đồng kiếm được từ sản vật rừng mỗi ngày mỗi ít, không biết có nuôi nổi không?”

Ông Lê Hoàng Cương tiếp lời: “Tội nghiệp trẻ con ở đây, vô tư lắm, có cái ăn là mừng rồi, chúng đâu có thấy được khi đi mò cua bắt ốc như cha mẹ, anh chị, chúng, rồi cái đói nghèo sẽ không thoát ra được. Biết học cao hiểu rộng sẽ thoát nghèo, nhưng miếng cơm manh áo cứ níu kéo trẻ con lại thì làm sao?”. Nhiều câu hỏi đặt ra không lời đáp, bức bối quá thì kêu trời, chứ không biết kêu ai.

Trời chiều, sông Đầm Chim đầy hơn, rộng hơn. Tiếng xuồng máy nổ giòn bên tai. Tụi học sinh đi học về đùa giỡn nhau chí chóe. Từ bờ bên này nhìn sang, Xóm Rẫy nhỏ dần, màu áo trắng cũng khuất dần sau hàng dừa nước.

Phóng sự của Thảo Mơ

Gian nan chuyện xóa nghèo

“Xóm Rẫy là một trong những "địa chỉ" còn rất nhiều khó khăn. Việc hỗ trợ các mô hình phát triển kinh tế cũng vướng nhiều vấn đề. Thứ nhất là đa số bà con nơi đây không có tư liệu sản xuất. Đến nay, Xóm Rẫy có 117 hộ nhưng chỉ có 19 hộ có đất, còn lại là sống nhờ, ở tạm. Thứ hai là nếu mở tổ hợp tác thì không có đầu ra cho sản phẩm bà con làm ra. Quan trọng nhất là nguồn vốn từ trên về rất hạn chế. Đối với xã Nguyễn Huân, mỗi năm huyện giao chỉ tiêu là 5 km lộ giao thông, trong khi xã có tới 13 ấp và điều kiện đi lại thì rất khó khăn, nên một phần phải trông chờ vào việc vận động các đơn vị, tổ chức từ thiện đầu tư xây dựng. Đặc biệt, Xóm Rẫy là điểm nóng về tệ nạn xã hội. Mặc dù chính quyền nhiều lần can thiệp, tuyên truyền, giáo dục nhưng do trình độ nhận thức của người dân chưa cao nên vẫn xảy ra tình trạng số đề, đá gà, gây mất an ninh trật tự", bà Trần Thị Thúy, Phó chủ tịch UBND xã Nguyễn Huân, cho biết.

 

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài cuối: Thầm lặng việc thiện nguyện

Gương mặt đôn hậu, nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi là điều dễ tạo thiện cảm với bất cứ ai khi gặp cô Phạm Thị Ngọc Thảo, giáo viên Trường Tiểu học Phường 6/2, TP Cà Mau. Nhiều năm duy trì “Tủ bánh mì yêu thương”, lặng thầm trao hàng trăm món quà thiết thực tới những hoàn cảnh kém may mắn, cô Thảo cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sẻ chia.

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài 2: Người gieo hạnh phúc

Mỗi ngày trôi qua, trên khắp quê hương Cà Mau xuất hiện nhiều tấm gương bình dị mà cao quý. Ðó là câu chuyện của người phụ nữ vượt qua nỗi đau của bản thân để dìu dắt những người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, là câu chuyện của những cựu chiến binh giàu nghĩa cử cao đẹp... Họ thầm lặng đóng góp cho đời, gieo hạt giống yêu thương, điểm tô cho cuộc sống thêm những gam màu tươi sáng.

Tô thắm vườn hoa tử tế

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nói, xã hội ta có rất nhiều những tấm gương người tốt, việc tốt. Họ có mặt khắp nơi, đó là những bông hoa đẹp trong rừng hoa đẹp. Ðiều đó được minh chứng ở Cà Mau, nơi tình đất - tình người bền chặt thuỷ chung, sâu nặng nghĩa tình. Trong hành trình phát triển quê hương, bằng những việc làm trượng nghĩa, người Cà Mau đã tô thắm thêm vườn hoa tử tế, làm lay động bao trái tim và lan toả giá trị sống tốt đẹp.

Cửa Lớn mở tương lai

Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài cuối: Bàn về giải pháp

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ người hoạt động ở ấp, khóm kế cận ở Cà Mau đầy sinh động, với nhiều cách làm hay, kinh nghiệm hữu ích. Bằng việc kết nối, đảm bảo tính kế thừa để phát huy tối đa những ưu điểm, bổ trợ những hạn chế giữa các thế hệ; đội ngũ này vừa ổn định vừa có những điểm sáng đột phá gắn với xu hướng trẻ hoá, chuẩn hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển khởi sắc của tỉnh nhà cũng đang tạo ra môi trường tốt để nhiều người trẻ chọn trở về gắn bó lập thân, lập nghiệp.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài 2: Những tín hiệu tích cực

Năng nổ, nhiệt huyết, nhạy bén và dám nghĩ, dám làm đang là những ghi nhận, đánh giá của các cấp uỷ đảng, chính quyền và Nhân dân khi nói về những người trẻ tuổi hoạt động ở ấp, khóm. Không khí tươi mới với nguồn năng lượng tích cực của đội ngũ trẻ đã thực sự trở thành điểm sáng ở nhiều địa bàn ấp, khóm ở Cà Mau trong hành trình phát triển. Ðó cũng là gợi ý hữu ích để Cà Mau tiếp tục công việc chuẩn hoá, trẻ hoá; tăng cường chất lượng và xây dựng đội ngũ kế thừa đảm đương nhiệm vụ ở khóm, ấp trong bối cảnh hiện nay.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng

Thực tế đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở ấp, khóm trong việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Ðây là cánh tay nối dài của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp, sâu sát nhất với Nhân dân. Mọi chuyển động của cấp “cơ sở của cơ sở” sẽ quyết định đến việc thành hay bại của một quyết sách, một chủ trương, một phong trào... gắn với nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của từng địa phương.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.