ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 3-1-25 01:39:06
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

Ngày ấy chúng tôi đi

Báo Cà Mau Chiến tranh kết thúc sau 21 năm, tôi kịp về sống giữa lòng mẹ như những ngày thơ bé, kịp quấn trên đầu chiếc khăn tang khi mẹ qua đời. Tôi cũng kịp nhận ra niềm hạnh phúc của đứa con được sống bên cạnh mẹ.

Ngày ấy ra đi tôi vừa tròn 13 tuổi. Tôi không quên ánh trăng rằm phủ xuống cây cao nơi bến sông nhà. Ðứng dưới đó là mẹ tôi, người nín lặng tiễn chân con. Cả ba tôi cũng lặng im khi đẩy chiếc xuồng con tách bến. Nhưng trên đường đưa tôi lên huyện, điểm tập trung đầu tiên, ba đã căn dặn tôi thật nhiều điều. Háo hức là vậy nhưng tôi đã khóc. Tôi khóc mà không dám bật thành tiếng, vì ba nói, nếu con không muốn đi thì ta trở lại.

Mà tôi thì có khát vọng từ lâu được đi ra Bắc, được gặp Bác Hồ...

Những học sinh chúng tôi thời đó ra đi theo chủ trương của Ðảng, Bác Hồ, Nhà nước nhằm tạo lực lượng để xây dựng miền Nam sau ngày giải phóng. Là con em của cán bộ, chiến sĩ ưu tú, chúng tôi được Bác Hồ, Ðảng, Nhân dân miền Bắc gọi là những “hạt giống đỏ” của miền Nam.

Thiếu nhi Tây Nam Bộ những ngày đầu tập kết tại Thanh Hoá. Ảnh tư liệu

Thiếu nhi Tây Nam Bộ những ngày đầu tập kết tại Thanh Hoá. Ảnh tư liệu

Ðã có lớp lớp học sinh miền Nam chúng tôi trở về quê hương chiến đấu, bị tù đày và đã nằm xuống rải rác đây đó trên các chiến trường B. Kể cả những người thầy dạy chúng tôi cũng lần lượt lên đường. Có thầy đã hy sinh ngay trên mảnh đất Cà Mau này, như thầy Hiền. Có thầy sau giải phóng làm quản lý nhà trường, như thầy Nguyễn Công Thiêm, nguyên Hiệu trưởng Trường THPT Hồ Thị Kỷ.

Ngày ấy chúng tôi đi háo hức niềm vui và cháy lòng nỗi nhớ. Ba tôi nói là 2 năm nhưng tính từ ngày ký Hiệp định Giơnevơ thì chỉ còn 18 tháng. 18 tháng không phải là dài nếu nó không trở thành 21 năm. 21 năm cháy lòng đất nước bởi chiến tranh, cháy lòng con người bởi kẻ Nam người Bắc. Nhiều rất nhiều gia đình miền Bắc có con em vào Nam chiến đấu cũng khắc khoải đợi chờ. Bởi cuộc chiến tranh này đâu của riêng ai, mà là của tất cả những người Việt Nam yêu nước, của cả dân tộc Việt Nam.

Ai có ở trong tình cảnh này mới thấu hiểu tình quê hương, nỗi nhớ gia đình của lũ trẻ chúng tôi. 21 năm, chúng tôi đã từng gắn trên áo mình miếng vải tang đen cho vụ thảm sát Phú Lợi, vụ B52 rải thảm ở huyện Trần Văn Thời; các vụ thảm sát dã man ở Hướng Ðiền, Vĩnh Trinh, Ngân Sơn, Sơn Mỹ... Và lần lượt lần lượt cha bạn này, chú bạn kia bị luật 10/59 tàn sát.

Ngày ấy chúng tôi đi chỉ là một lũ nhỏ tứ xứ gom về. Kênh xáng Chắc Băng là điểm tập trung khá lâu. Ở đó, chúng tôi được tổ chức trong các nhóm tổ đoàn, xen lẫn nam nữ, lớn bé, thành thị, nông thôn, miễn là ở độ tuổi học sinh. Ở Chắc Băng chúng tôi được hướng dẫn cách sống tập thể. Từ sáng dậy tập thể dục, vệ sinh nơi ở, cách ăn tập trung, dùng đũa hai đầu. Rồi tập đi đều, sinh hoạt, vui chơi tập thể... Chẳng còn thời gian để chúng tôi nhớ nhà. Chuyến tàu chúng tôi đi là tiết trời tháng Chạp, ngoài Bắc đã lạnh cắt da. Chúng tôi được chuẩn bị trước tinh thần, còn đồ ấm ra Sầm Sơn mới lãnh.

Ở Chắc Băng, đoàn chúng tôi lần lượt đông lên vì các nơi còn tiếp tục đưa con em mình đến. Sau những ngày ở Chắc Băng, đoàn chuyển xuống Rạch Lùm. Nghĩa là từng chặng chúng tôi nhích dần về cửa Sông Ðốc. Những ngày ở Chắc Băng thật vui. Lúc ở Rạch Lùm vì nhà rời rạc không còn sinh hoạt, chỉ có đợi chờ nên thật buồn. Nỗi nhớ nhà trào lên khiến nhiều hôm tôi cứ muốn tìm đường về. May mà chưa đầy tuần lễ chúng tôi được lệnh chuyển ra Sông Ðốc, xuống tàu.

Ðó là một buổi sáng trời buồn, có vài hạt mưa theo kiểu mưa bụi cuối đông. Bến Sông Ðốc lúc đó người đông nghịt. Ðông nhất là bộ đội, cán bộ các cơ quan và gia đình họ, sau là những đoàn học sinh của các tỉnh miền Tây Nam Bộ chúng tôi.

Phía người tiễn cũng đông không kém. Nổi bật là các cô chú trong ban tổ chức tiễn đưa. Kế nữa là người địa phương Sông Ðốc được huy động giúp đỡ, hỗ trợ công tác tiễn đưa và thân nhân những người tập kết.

Tôi nhớ hoài hình ảnh các mẹ, các chị cầm những chiếc khăn rằn lau nước mắt, rồi quàng vội cho người thân. Họ ôm hôn nhau, họ nắm níu nhau thật chặt, nửa khóc nửa cười trong giờ chia tay. Ðể rồi sau đó những chiếc tàu há mồm, những chiếc ghe buồm tách khỏi bến đưa các đoàn người ra tàu lớn.

Còn lại là hai ngón tay, hai ngón tay biểu tượng hai năm của kẻ ở người đi hẹn ngày hội ngộ. Hai ngón tay cứ thế vẫy hoài trong nỗi nhớ.

Bến Sông Ðốc thật vui vì băng cờ, biểu ngữ rợp trời nơi trụ sở, nhà dân, bến sông và trên các con tàu, chiếc ghe buồm đưa tiễn. Kể cả những giọt nước mắt cũng lấp lánh niềm vui và vinh hạnh.

Ngoài xa kia, một chiếc tàu lớn của Liên Xô đang đợi. Cán bộ, bộ đội ra đến nơi lần lượt leo lên chiếc thang dây dài thả từ boong tàu xuống sát mặt nước. Còn lũ nhỏ chúng tôi thì được người lớn ẵm chuyển từ người này qua người khác để đưa lên tàu.

Học sinh được xếp ở tầng 1, nơi ít bị dạ sóng nhất. Còn các gia đình ở tầng 2. Các chú bộ đội nằm tuốt dưới hầm tàu.

Chiếc tàu lớn có bếp nấu, phòng ăn, phòng vui chơi giải trí, phòng tập thể dục, nơi đánh bóng bàn, bóng rổ, cầu lông. Chiều buồn, lên boong tàu đi lòng vòng xem biển.

Bình thường tàu chạy từ Sông Ðốc ra Cửa Lò hoặc Sầm Sơn chỉ khoảng 3 ngày đêm. Chuyến tàu của chúng tôi phải đương đầu với bão, 9 ngày đêm, ngày 9/1/1955 dương lịch mới cập được vào Sầm Sơn (Thanh Hoá).

Hôm tàu cập bến Sầm Sơn, ban tổ chức và bà con tại chỗ ra đón đông nghịt. Chúng tôi được ẵm xuống thuyền nan và đưa vào bờ về các lán trại (với những sạp dài, rộng, lót kỹ những lớp rơm dày cho đỡ lạnh).

Có câu chuyện vui, do bất đồng ngôn ngữ, là chúng tôi mừng thầm khi được hứa về lán trại nghỉ ngơi rồi cho uống nước chè. Chúng tôi tưởng được uống chè sau chuyến đi mệt, nào ngờ chè là trà, chát đắng.

Tiết trời lạnh, học sinh chúng tôi chui vào những chiếc áo bông, đội mũ ấm vào, không còn biết ai là ai nữa, nếu không gọi tên nhau.

Nghỉ dưỡng sức, ăn uống bồi dưỡng ở Sầm Sơn một tuần, chúng tôi được đưa về Nông Cống (Thanh Hoá) ở trong các nhà dân. Lúc bấy giờ chúng tôi đã được phân ra theo lớn nhỏ, cấp học để vào các trường mang số hiệu cụ thể. Như Trường Học sinh miền Nam số 1, số 2, số 3... đến số 27, 28. Và chúng tôi buộc phải tu dưỡng, buộc phải học lần lượt hết các cấp phổ thông, vào các trường đại học trong hoặc ngoài nước.

Học cho thành tài, chúng tôi chỉ lo bao nhiêu đó. Còn cái ăn, cái mặc, sách vở cho học hành, tất cả có Bác Hồ, Ðảng và Nhân dân miền Bắc lo hết cho chúng tôi...

Giờ đây những học sinh miền Nam ngày xưa về quê hương cống hiến, vẫn sống gắn bó với nhau, giúp đỡ nhau trong cái tuổi xế chiều. Hết cống hiến cho đời, họ làm điểm tựa, bệ phóng cho con cháu mình. Họ mong sao những người thân sống có ích, trung thực và nỗ lực cho đời như họ đã từng sống./.


Ðàm Thị Ngọc Thơ

 

Người về bến cũ

Bến Sông Ðốc - địa danh gắn liền với sự kiện lịch sử chuyến tàu tập kết, những ngày cuối năm 2024 chứng kiến cuộc hội ngộ đặc biệt của cựu học sinh miền Nam. Họ, những người từng bước lên tàu rời quê hương cách đây 70 năm để ra Bắc học tập, cống hiến, nay trở lại bến xưa với mái đầu bạc trắng và trái tim ngập tràn cảm xúc.

Về căn cứ xưa, nghe kể chuyện chở che bộ đội đánh giặc...

Trong kháng chiến chống Mỹ, Xẻo Trê (thuộc ấp Lý Ấn, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước) được chọn làm nơi đóng quân của Ban Chỉ huy Tỉnh đội. Suốt 9 năm (1964-1973), căn cứ Xẻo Trê vẫn giữ được bí mật, an toàn tuyệt đối, tạo sức mạnh để tấn công kẻ địch. Ðó là nhờ vào lòng dân luôn đùm bọc che chở, hết lòng vì cách mạng, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ khu căn cứ.

Nơi lý tưởng để giáo dục truyền thống

Di tích lịch sử cấp tỉnh “Cây me Rạch Gốc” (toạ lạc tại ấp Rạch Gốc, xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển), địa điểm minh chứng cho truyền thống lịch sử của vùng đất Tân Ân, được chính quyền địa phương và người dân nơi đây trân trọng, giữ gìn và phát huy giá trị.

Biểu tượng bất tử

Đền thờ 10 Anh hùng liệt sĩ Khởi nghĩa Hòn Khoai uy nghiêm giữa lòng TP Cà Mau. Công trình là biểu tượng bất tử của truyền thống anh hùng cách mạng, trang sử vàng của vùng đất cuối trời cực Nam Tổ quốc.

Thư từ Vàm Lũng

Thư từ Vàm Lũng

Truyền thống anh hùng vinh quang tiếp nối

Trong tiết trời se lạnh mỗi độ xuân về, trong mỗi người con đất Việt luôn nguyên vẹn niềm vui, tự hào khi có Ðảng. Ðặc biệt hơn, bước sang năm 2025, đất nước ta đón sự kiện quan trọng là đại hội Ðảng các cấp, đây là dịp để Ðảng ta tiếp tục chọn ra những cán bộ, đảng viên ưu tú tham gia thực hiện trách nhiệm thiêng liêng vì mục tiêu: làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Ngôi trường Nhà Máy

Vừa rời khỏi lớp Giáo khoa của Nha Giáo dục Nam Bộ đào tạo giáo viên cấp tốc 3 tháng ở vàm Rạch Ráng (do Tiến sĩ Hoàng Xuân Nhị, Giám đốc Nha Giáo dục Nam Bộ làm Hiệu trưởng), tôi được chú Nguyễn Tạo, Trưởng ty Giáo dục Bạc Liêu, giao nhận nhiệm vụ Hiệu trưởng Trường Tiểu học ấp Nhà Máy, xã Khánh Bình Tây (gồm lớp Nhì A, lớp Nhì B, lớp Ba, lớp Tư, có trên 150 học sinh hết thảy). Hôm đó là ngày lịch sử vẻ vang của đất nước.

Các anh về với đất mẹ xứ Đầm

Anh Sáu Phước (Lê Hoàng Phước), nguyên Giám đốc VNPT Cà Mau, hiện là Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Cà Mau, gọi điện cho tôi, giọng xúc động: “Tổ chức “Trái tim người lính” phục dựng và trao tặng lại di ảnh của 2 liệt sĩ Lê Tấn Tài và Lê Tấn Lộc, 2 người anh ruột của anh Sáu Phước, tại gia đình. Em liên hệ đoàn theo chuyến này để cùng mọi người đón các anh về với gia đình, với quê hương Đầm Dơi sau mấy chục năm trời”.

Mạch nguồn giáo dục kháng chiến

Nhìn vào lịch sử cách mạng của vùng đất Cà Mau trong thời đại Hồ Chí Minh, có thể nhận thấy những điều rất đặc biệt về giáo dục trong kháng chiến. Sự nghiệp giáo dục những thế hệ “hạt giống đỏ” cách mạng kế cận luôn là công việc hệ trọng mà Bác Hồ và Ðảng ta luôn đặc biệt quan tâm gắn liền với mục tiêu thiêng liêng của sự nghiệp cách mạng là chiến thắng giặc thù, giành lại hoà bình, thống nhất và xây dựng, phát triển đất nước. Xuyên suốt 2 cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, Cà Mau trở thành chiếc nôi giáo dục kháng chiến Nam Bộ và đã hoàn thành vẻ vang sứ mệnh được giao phó.

Hẹn một ngày về

Từ nhiều tháng trước, các cựu học sinh miền Nam (HSMN) ở TP Hồ Chí Minh đã háo hức hẹn nhau cùng về Sông Ðốc - Cà Mau, dự Kỷ niệm 70 năm Sự kiện tập kết ra Bắc, dù trong số ấy không phải ai cũng ra đi từ bến Sông Ðốc. Về với Sông Ðốc - Cà Mau, về với sự kiện mà 70 năm trước được xem là mốc khởi nguồn của các trường HSMN trên đất Bắc, với các cựu HSMN, thêm một lần nữa được tắm mình trong ký ức buồn vui của quãng đời tuổi thơ vắng mẹ, thiếu cha đầy khắc khoải nhớ thương, nhưng cũng rất đỗi tự hào.