ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 1-6-25 07:12:44
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Ánh thép U Minh

Báo Cà Mau Tôi thực sự ngỡ ngàng, xúc động và cảm phục khi lần đầu tiên đến Khu Du lịch sinh thái Làng rừng Cà Mau (ECO), ấp Vồ Dơi, xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời. Làng rừng là sự kiện độc đáo của Ðảng bộ, quân và dân tỉnh Cà Mau trước ngày Ðồng khởi 1960, thế kỷ XX. Làng rừng thể hiện tinh thần quật khởi, là thái độ bất khuất trước quân thù tàn bạo với ý chí “Thà hy sinh tất cả, quyết không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ!”. Nơi đây đã được công nhận Di tích Lịch sử cấp quốc gia.

Trên 60 năm, Làng rừng được phục dựng một cách kỳ công. Nếu Ðịa đạo Củ Chi là sự kiện oai hùng của quân, dân Củ Chi thì Làng rừng Cà Mau là ánh thép quật khởi của quân, dân Cà Mau kiên cường.    

Minh hoạ: LÝ KIỀU LOAN

Bước vào Khu Du lịch sinh thái Làng rừng Vồ Dơi, mọi người có thể hình dung một Cà Mau thu nhỏ từ thời xa xưa bởi một số hiện vật trưng bày như nông cụ cầm tay gồm: cuốc, thuổng, vá, phảng, cù nèo, nọc cấy, lưỡi cày, vòng gặt và dụng cụ dệt chiếu, dệt vải, quay tơ, chằm nón, cối xay lúa, cối giã gạo, thúng, rổ, sàng, giần, nia, sịa, quạt, gào múc nước bằng cà bắp...

Phía sau những gian nhà hàng là một hồ nước rộng, tiếp theo là hệ thống kênh mương và rừng tràm. Hình ảnh đầu tiên tác động đến người xem là 2 chiếc xuồng chèo có mui. Du khách có thể xuống xuồng, chèo dọc theo con kênh hai bên rợp bóng dừa. Vào đầu năm 1955 đến đầu năm 1957, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ uỷ ở lại chỉ đạo phong trào cách mạng miền Nam thường di chuyển trên những chiếc xuồng có mui như thế này. Nơi cơ quan Xứ uỷ đứng chân chỉ đạo từ các huyện Thới Bình, Trần Văn Thời, Cái Nước, Ngọc Hiển.

Bước qua cây cầu đặc trưng khi tiến đến Làng rừng, du khách trông thấy bức ảnh khu vực rừng tràm. Thời xa xưa, đại ngàn U Minh là “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Nơi đây lớp lớp cây rừng phủ kín mặt đất như mốp, bời lời, cây trâm, bí bái, tai tượng; đặc biệt là cây mật cật, lá xanh như muôn vạn cây dù, che kín mặt trời, giữa trưa âm u mà như chiều tối, dân gian thường gọi u u, minh minh. Có lẽ địa danh U Minh cũng xuất phát từ đó. Quân thù không thể càn vào rừng vì nó quá hiểm trở.

Trước mắt du khách trước khi vào làng rừng là hình ảnh máy chém của thời Ngô Ðình Diệm. Năm 1955, sau khi tiếp quản miền Nam, Mỹ - Diệm tuyên bố không có hiệp thương tổng tuyển cử, chúng xây dựng chính quyền, quân đội và hệ thống đồn bót khắp nơi nhằm khống chế, kềm kẹp và trấn áp phong trào cách mạng của quân, dân ta. Bộ máy cai trị của chúng ngày càng độc tài, phát xít. Khi bị Nhân dân ta chống lại, chúng càng đàn áp man rợ. Chúng lê máy khắp nơi, chặt đầu và hành huyết, tế cờ, mổ mật, moi gan, thủ tiêu và tra trấn, tù đày bất kỳ ai bị chúng quy là cộng sản. Chúng tiến hành các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, tuyên bố chiến tranh đơn phương, chuẩn bị tiến công miền Bắc Việt Nam. Ngày 6/5/1959, Mỹ - Diệm ban hành Luật 10/59, đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, quyết tiêu diệt bằng được lực lượng ta. Ác độc hơn, chúng buộc gia đình có người thân làm cán bộ phải dời nhà ra ở xung quanh đồn bót để làm hàng rào thịt cho chúng nếu bị ta tiến công. Chúng xây dựng các khu dinh điền, trù mật là những trại tập trung khổng lồ nhằm tách dân ra khỏi Ðảng...

Ðồng chí Lê Duẩn kể rằng, khi Mỹ - Diệm lê máy chém khắp miền Nam, nhiều người ở Cà Mau nói với đồng chí: Nếu Ðảng không lãnh đạo khởi nghĩa thì họ tự khởi nghĩa, không chờ sự lãnh đạo của Ðảng. Ðây là tiền đề để đồng chí khởi thảo Ðề cương cách mạng miền Nam.

Bắt đầu vào Làng rừng, du khách thấy bức ảnh của Bác sĩ Phạm Lai, lúc thanh niên được Chi bộ xã Nguyễn Phích tổ chức đưa vào lực lượng xung kích của địch tại đồn Vàm Cái Tàu để làm nội tuyến. Ngày 26/8/1959, Phạm Lai phối hợp với lực lượng Ðinh Tiên Hoàng tiến công đồn Vàm Cái Tàu. Ta tiêu diệt 7 tên địch, bắt sống 12 tên, thu 57 súng. Ðặc biệt giải thoát hơn 200 gia đình bị địch bắt quy khu, đưa vào rừng, thành lập làng rừng, sống bất hợp pháp với địch và chế tạo vũ khí chống lại chúng. Các nơi khác trong tỉnh cũng lần lượt thành lập các làng rừng trực tiếp chống địch. Hàng chục làng rừng hình thành khắp tỉnh Cà Mau.

Căn chòi đầu tiên được phục dựng là hình ảnh đồng bào ta ăn ở, sinh hoạt tại Làng rừng cách xóm làng cũ hàng chục cây số. Chúng ta có thể thấy bếp nấu cơm rất đơn giản, chỉ đắp đất làm vuông bếp, bên trên cắm 3 khúc tràm nhỏ làm đầu ông táo, 1 thanh tràm kê trên 2 khúc nạng để kho cá, nấu nước. Một cái khạp nhỏ đựng gạo, vài keo nhỏ đựng mắm, muối. Chung quanh là những vật dụng như mùng, chiếu, nóp, vải che mưa...  

Căn chòi thứ hai được tái hiện gồm dây choại, sậy bện đăng xây nò, đọt mật cật, dầm, chèo... Ðây là những thứ đồng bào ta tự lao động cải hoạt để có thể bán, lấy tiền mua gạo. Bởi lúc đầu, khi lực lượng còn ít, ta có thể nhờ sự chi viện bên ngoài, nhưng khi người vào ngày càng đông, chi bộ hướng dẫn đồng bào tự túc, tự cấp. Bà con đặt lọp, đặt lờ, đặt trúm, cắm câu, giăng lưới, nhổ bồn bồn, hái rau muống, rau ngổ, đốn chuối nước, hái đọt choại... làm thực phẩm và làm nhiều thứ khác đem bán lấy tiền. Rừng U Minh quá dồi dào rau, cá và rùa, rắn, trăn, trúc (tê tê), cần đước, kỳ đà, chồn, nai, heo rừng, cùng rất nhiều loài chim như giang sen, bồ nông, chàng bè, cò, diệc, vạc, le le, cúm núm, còng cọc... Lung Ngọc Hoàng là nơi lưu trữ hàng ngàn tấn cá vào những mùa khô.

Căn chòi thứ ba có treo tấm bảng viết phấn trắng là lớp học bình dân dành cho các em thiếu nhi và người lớn tuổi chưa biết chữ. Nơi đây còn là nơi hội họp, vui ca, hát hò, nhảy múa. Nhiều người lúc mới vào Làng rừng chưa biết chữ, nhưng sau đó có thể thành cán bộ với trình độ tương đối khá. Làng rừng là chiếc nôi cách mạng, nhiều người được vào các đoàn thể như nông dân, thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi... được đào tạo, rèn luyện trở thành cán bộ, chiến sĩ, nhiều người trở thành đoàn viên, đảng viên, chiến sĩ thi đua, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân...     

Căn chòi tiếp theo là trạm y tế. Lúc thành lập Làng rừng, ta chỉ có cứu thương và y tá. Dụng cụ nhìn thấy là xoong nấu y cụ (dao, kéo, pel, ống chích...). Những lọ Penicillin đựng mật ong hấp chín, dùng để thoa lên vết thương trước khi băng, có tác dụng tiệt trùng rất tốt. Ngoài ra, còn có trái dừa non. Nước dừa dùng thay nước biển vì không có đủ nước biển trong điều trị bệnh. Ông Phạm Lai được đào tạo làm y tá, rồi y sĩ, bác sĩ. Ông đã cứu chữa rất nhiều bệnh nhân trong huyện Trần Văn Thời thời kháng chiến.

Một căn chòi rộng, tái hiện các loại công trường sản xuất vũ khí trong Làng rừng. Ðầu tiên chỉ là dao găm, mã tấu; tiếp theo là sạc đạn, chế tạo súng độc lập theo kiểu súng mút của Pháp, Anh, Ðức, Nga và súng ngựa trời, hoả lôi công, đạp lôi, lựu đạn gài, mìn gạt. Mọi người hết sức khâm phục đồng chí Ba Lò Rèn (Nguyễn Trung Thành), sau này là Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân. Ðồng chí chỉ đạo nghiên cứu chế tạo thành công rất nhiều đạn pháo. Tháng 6/1961, địch cho 3 tàu, trong đó có 2 tàu sắt (tàu mặt dựng) chi viện cho đồn Dinh Ðiền, xã Khánh Lâm, ta dùng đạn pháo SSAL do xưởng đồng chí sản xuất bắn 1 quả, thủng một bên tàu, tàu tắt máy. Chiếc thứ hai cách chiếc thứ nhất 20 m, địch hốt hoảng tắt máy, đầu hàng. Ta thu được 2 tàu địch và rất nhiều vũ khí còn nguyên vẹn...

Lịch sử đã bước sang trang mới, dân tộc ta đã làm nên biết bao chiến công lừng lẫy, trong đó Làng rừng là biểu tượng của tinh thần quật khởi, không biết quỳ gối, cúi đầu trước quân thù có sức mạnh hơn ta gấp vạn lần.

Phía cuối khu Làng rừng xuất hiện hai câu thơ của Truy Phong, khẳng định chân lý tất yếu của tinh thần quyết chiến, quyết thắng:

Sắt thép tinh ròng, binh tướng dữ

Không sao thắng nổi trái tim người!

Trở lại nơi hơn 60 năm trước, quân dân ta đã sống và chiến đấu vô cùng oanh liệt, làm cho chúng ta hết sức tự hào, cảm phục và kính trọng.

Chúng ta quyết xứng đáng hơn nữa đối với những người đã ngã xuống cho hôm nay. Puskin, nhà thơ Nga vĩ đại, có câu nói rất nổi tiếng: “Biết kính trọng quá khứ là đặc điểm phân biệt văn minh với dã man!”.

Ðến nơi đây, không những chúng ta được thưởng ngoạn vùng đất trù phú và con người hiền hoà Cà Mau, chúng ta còn có dịp trở lại quá khứ hào hùng của cha ông mà Làng rừng là biểu tượng sống động nhất, độc đáo nhất của một thời oanh liệt!

 

Trường Sơn Ðông

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.