ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 24-11-24 08:49:49
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Bãi nuôi sò mở rộng, cơ hội mới cho người nghèo

Báo Cà Mau (CMO) Tôi đến bãi bồi, xã Lâm Hải, huyện Năm Căn (thuộc Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau quản lý) đã hơn 3 giờ chiều, khi nước vẫn còn ngang đầu gối. Trời mưa lất phất nhưng vẫn đủ thấy rõ những hàng cọc bao ví nuôi sò dày đặc, kéo dài hàng cây số trên mặt biển. Xa xa có vài người giăng lưới, căng lú, ẩn hiện theo con sóng.

Chị Lê Thị Bé Năm (ấp Xẻo Sao, xã Lâm Hải) chạy đò đưa tôi ra ấp Nà Lớn. Chị nói, “nhờ” xã còn 7 ấp chưa có lộ nông thôn nên nghề này giúp chị sống “khoẻ re”. Những dịp lễ, Tết, mỗi ngày chị kiếm được 1 triệu đồng trở lên là chuyện thường.

Chị Bé Năm khoe: “Nhờ chạy đò dọc nên tui mới nuôi được 2 đứa con ăn học. Đứa lớn học ngành y tại Đại học Cần Thơ, đứa nhỏ thì học lớp 11 ngoài trường huyện. Không làm nghề chạy đò mà đi giăng lưới, mò sò như họ thì dễ gì nuôi nổi”. Chị vừa nói vừa chỉ tay về phía những chiếc xuồng chở lưới, lú chạy hướng ra bãi bồi.

Những cuộc "mưu sinh lẩn trốn"

Ông Năm Hiệp (Nguyễn Ngọc Hiệp, ấp Nà Lớn, xã Lâm Hải) là một trong những người đầu tiên đặt chân đến vùng đất này. Từ huyện Trần Văn Thời về đây, 35 năm gắn bó với vùng bãi bồi này, sạc sò, mò cua, bắt ốc, nhưng đến cái tuổi gần đất xa trời, ông vẫn trắng tay.

Nhọc nhằn đường đến trường của các em học sinh Trường Tiểu học Lâm Hải.

Căn nhà của ông cũng giống như hơn 10 căn nhà khác trong ấp được cất theo Quyết định 176/2008/QĐ-TTg, nay không còn đứng vững trong gió. Có lẽ, "tài sản" lớn nhất của ông lúc này là cuốn sổ hộ nghèo. Nhờ có nó mà ông mới được đi nằm viện cả tuần nay, không thì nằm nhà chờ chết chứ tiền đâu mà trả. 7 người con và mấy đứa cháu thì vẫn tiếp nối “truyền thống” của ông để lại: mò sò và nghèo.

Chị Nguyễn Kiều Trang, con gái út của ông Năm Hiệp, sống gần ông nhất. Nhà cửa chật chội, từ cửa trước ra cửa sau, bước vài bước là tới. Nên khi lấy anh Trần Văn Nghĩa, thấy nhà nào đi xứ khác làm ăn thì hai vợ chồng xin vô ở, khi nào họ về thì anh chị dọn về nhà ông Năm.

Cả nhà chị Nguyễn Kiếu Trang quây quần bên mâm cơm để chuẩn bị ra bãi bồi đánh bắt.

4 năm chịu cảnh ở nhờ như vậy nên năm rồi, chính quyền xét cho chị vào diện hộ nghèo. Nhờ vậy chị mới được vay ngân hàng 10 triệu đồng để cất nhà, vay anh họ 5 triệu sắm xuồng máy, để khỏi đi nhờ xuồng người ta ra bãi bồi. Cứ tưởng với gia tài này, anh chị sẽ dành dụm tiền để lo cho ông Năm và các con ăn học. Vậy mà mới tháng trước, anh Nghĩa chạy ra bãi bồi cào sò trong vùng cấm, bị người của dự án phát hiện, phải đóng phạt 7,5 triệu đồng. Không có tiền đóng phạt để lấy lại xuồng máy, vợ chồng anh đành chèo xuồng hơn nửa tiếng đồng hồ để ra bãi bồi mò sò rồi chèo về.

Chị Trang ngậm ngùi: “Mấy tháng nay nước lớn quá, đi ra bãi bồi mần có khi 7-8 giờ tối mới về, bán chỉ có 60.000-70.000 đồng, nhiều lắm thì được 150.000 đồng. Cũng có khi về chỉ đủ cá nấu được bữa cơm”.

Những năm trước, nhờ có 3 ha đất nuôi tôm, mỗi vụ trúng được gần chục triệu mà ông Tư Việt (Huỳnh Văn Việt, ấp Nà Lớn, xã Lâm Hải) sửa sang lại được căn nhà đàng hoàng hơn. Nhưng từ khi phương án mở rộng khu nuôi sò huyết thực nghiệm từ 30 ha lên 400 ha, mỗi vụ tôm, ông chỉ đủ tiền thả con giống.

Ông Tư Việt bức xúc: “Nói 400 ha vậy chứ đi ra nhìn cũng biết là cả ngàn héc-ta rồi. Cắm cây, lưới bao ví kín mít, ban đêm chạy ra xớ rớ là lủi xuồng, mắc kẹt trong đó. Từ khi họ mở rộng diện tích nuôi sò huyết tới nay, vỏ sò chết chất đống trên bãi. Nước ô nhiễm đen thui, người dân nuôi tôm trong này chịu trận. Cả năm nay, một con nước không được 3 triệu tiền tôm”.

Ấp Nà Lớn, xã Lâm Hải hiện có 170 hộ dân sinh sống. Trong đó, có hơn 40 hộ không có đất ở, 16 hộ thuộc diện hộ nghèo.

Ông Trần Văn Út, Trưởng ấp Nà Lớn, cho biết: “Cuộc sống ở đây vốn đã khó khăn, từ khi Nhà nước cho thực hiện phương án nuôi sò đến nay, bà con lâm vào cảnh bế tắc. Trước khi có dự án, người dân khai thác trái phép, bị bắt thì đóng phạt là xong. Nhưng khi có dự án, doanh nghiệp vào cất chòi, bao ví xung quanh, người dân vào bãi bồi kiếm sống lỡ bị phát hiện là xảy ra xô xát, rồi gán họ cái tội “trộm”, “cướp”, đóng phạt chuộc xuồng, máy, lưới, lú thấp nhất cũng hơn 5 triệu đồng. Nhiều người không chịu nổi cảnh này nên đã có hơn 10 hộ rời địa phương đi các tỉnh khác làm ăn sinh sống”.

Tạo sinh kế để người nghèo vươn lên

Nghe “đồn” ông Sáu Đông (Nguyễn Văn Đông, Chi hội trưởng Chi hội Nông dân ấp Nà Lớn) là người có của ăn của để nhất ấp. Lúc trước quê ở xã Phú Mỹ, huyện Cái Nước, cả gia đình ông khăn gói dắt díu nhau về đây từ năm 1989. Ông được nhận giao khoán đất rừng để sinh sống.

Sau 28 năm bám rừng, bám đất, giờ đây, ông có 4 ha nuôi tôm trên diện tích đất trồng rừng. Ông còn lên liếp 5 công đất trồng chuối, gần Tết thì trồng vài trăm dây dưa hấu, mỗi năm đem về hơn 100 triệu đồng. Năm nay ông xây chuồng, “tậu” thêm cặp dê giống để nuôi.

Diện tích bao ví nuôi sò dày đặc cọc rào, rất nguy hiểm cho các phương tiện thuỷ.

Ông Sáu Đông cho biết: “Năm 2016 có 6 hộ trong ấp thành lập Tổ hợp tác Thuận Thông, vay 100 triệu đồng từ nguồn vốn của hội để đầu tư mua con giống. Sau khi thu hoạch, trừ chi phí, tổ hợp tác thu lợi hơn 160 triệu đồng. Trả số tiền đã vay, số còn lại thì chia cho các thành viên để làm vốn tái thả nuôi. Năm nay có thêm 18 hộ trong ấp thành lập 1 tổ hợp tác nuôi sò huyết vay 200 triệu đồng từ nguồn vốn của hội để mua con giống, hiện nay đang phát triển rất tốt”.

Thế nhưng, toàn xã không có bao nhiêu hộ có điều kiện tham gia vào tổ hợp tác để không sinh sống phụ thuộc vào bãi bồi. Là hộ dân tộc Khmer, gia đình ông Sơn Xị (ấp Biện Trượng, xã Lâm Hải) chủ yếu làm thuê, mò cua, bắt ốc...

“Mấy ngày trước, chính quyền có họp dân để đưa ra phương án tạo sinh kế cho người dân ở bãi bồi. Dân thì ai cũng muốn được tham gia vào tổ hợp tác nhưng đa số chúng tôi sống dựa vào bãi bồi đã là dân nghèo nên không đủ điều kiện tham gia. Vì thế, hoặc là làm công cho doanh nghiệp nuôi sò, hoặc là tiếp tục khai thác trái phép”, ông Xị phân trần.

Phó chủ tịch UBND xã Lâm Hải Tôn Văn Tiến cho biết: “Vừa qua, thực hiện kết luận của UBND tỉnh chỉ đạo cho Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau phối hợp cùng với chính quyền địa phương và các xã có liên quan, trong đó có xã Lâm Hải và doanh nghiệp nuôi sò huyết trong khu thực nghiệm, tiến hành rà soát lại cũng như lấy ý kiến người dân nhằm đưa ra các phương hướng giải quyết sinh kế cho những hộ dân sinh sống dựa vào sản vật từ bãi bồi. Qua khảo sát, phương án người dân làm công cho doanh nghiệp được hơn 80% đồng thuận. Tuy nhiên, cũng không ít người không đồng thuận tham gia dự án. Lý do là từ trước đến nay, người dân đã quen với việc tự do đánh bắt, không bị ràng buộc, nên họ chấp nhận chịu phạt chứ không tham gia”.

Tại Hội nghị Sơ kết việc nuôi sò huyết thực nghiệm của Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau, Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Lê Văn Sử đề nghị Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau tiếp tục rà soát, đánh giá, điều chỉnh những nội dung chưa hợp lý, bất cập của phương án nuôi sò huyết thực nghiệm; điều tra, lấy ý kiến, xác định đối tượng dân và số hộ tham gia trên diện tích liên doanh, liên kết với doanh nghiệp, cá nhân thực hiện...

Thực hiện chỉ đạo của Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Lê Văn Sử, Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau phối hợp với UBND các xã Lâm Hải, Nguyễn Việt Khái và Rạch Chèo thành lập Tổ điều tra lấy ý kiến dân và doanh nghiệp về thực hiện phương án nuôi sò huyết thực nghiệm tại Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau trình UBND tỉnh.

Theo đó, 3 xã có tổng cộng 832 hộ nghèo, điều tra được 91 hộ của xã Lâm Hải, Nguyễn Việt Khái đang sống tập trung tại các ấp tiếp giáp với vùng thực hiện phương án (các hộ dân xã Rạch Chèo không hợp tác và không cung cấp thông tin điều tra). Qua điều tra, có 19/47 hộ chỉ muốn làm thuê cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nuôi sò huyết chứ không tham gia dự án; có 44 hộ muốn tham gia thực hiện phương án mở rộng nuôi sò huyết. Các đối tác đều thống nhất hỗ trợ cho người dân trong việc liên kết với người dân nuôi sò huyết; dành 10-20% diện tích với Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau để hỗ trợ, liên kết người dân nuôi sò huyết. Các đối tác sẽ đầu tư con giống, chi phí xây dựng và hoạt động, cho người dân tạm ứng một khoản tiền hằng tháng để sinh hoạt gia đình.

Kết thúc vụ nuôi, lợi nhuận sẽ được chia cho người dân theo thoả thuận giữa doanh nghiệp và người dân. Người dân không cần bỏ vốn đầu tư cũng như không cần chịu trách nhiệm rủi ro về tài chính./.

Thảo Mơ

Chủ tịch UBND xã Lâm Hải Nguyễn Việt Bắc cho biết, toàn xã Lâm Hải được 4 ấp có lộ bê-tông là ấp Xẻo Sao, Chà Là, Trại Lưới B và ấp Ông Ngươn với tổng chiều dài khoảng 23 km, 7 ấp còn lại hơn 52 km chỉ có lộ đất đen. Việc đi lại, giao thương chủ yếu phụ thuộc vào đường thuỷ. Hiện nay, 4 ấp ven biển với khoảng 200 hộ dân không có tư liệu sản xuất, đa số thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo, sinh sống dựa vào khai thác và đánh bắt sản vật ven bãi bồi. Đời sống của người dân gặp rất nhiều khó khăn. Toàn xã có 205 hộ nghèo và 32 hộ cận nghèo/2.143 hộ, chiếm khoảng 11%.

 

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài cuối: Thầm lặng việc thiện nguyện

Gương mặt đôn hậu, nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi là điều dễ tạo thiện cảm với bất cứ ai khi gặp cô Phạm Thị Ngọc Thảo, giáo viên Trường Tiểu học Phường 6/2, TP Cà Mau. Nhiều năm duy trì “Tủ bánh mì yêu thương”, lặng thầm trao hàng trăm món quà thiết thực tới những hoàn cảnh kém may mắn, cô Thảo cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sẻ chia.

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài 2: Người gieo hạnh phúc

Mỗi ngày trôi qua, trên khắp quê hương Cà Mau xuất hiện nhiều tấm gương bình dị mà cao quý. Ðó là câu chuyện của người phụ nữ vượt qua nỗi đau của bản thân để dìu dắt những người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, là câu chuyện của những cựu chiến binh giàu nghĩa cử cao đẹp... Họ thầm lặng đóng góp cho đời, gieo hạt giống yêu thương, điểm tô cho cuộc sống thêm những gam màu tươi sáng.

Tô thắm vườn hoa tử tế

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nói, xã hội ta có rất nhiều những tấm gương người tốt, việc tốt. Họ có mặt khắp nơi, đó là những bông hoa đẹp trong rừng hoa đẹp. Ðiều đó được minh chứng ở Cà Mau, nơi tình đất - tình người bền chặt thuỷ chung, sâu nặng nghĩa tình. Trong hành trình phát triển quê hương, bằng những việc làm trượng nghĩa, người Cà Mau đã tô thắm thêm vườn hoa tử tế, làm lay động bao trái tim và lan toả giá trị sống tốt đẹp.

Cửa Lớn mở tương lai

Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài cuối: Bàn về giải pháp

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ người hoạt động ở ấp, khóm kế cận ở Cà Mau đầy sinh động, với nhiều cách làm hay, kinh nghiệm hữu ích. Bằng việc kết nối, đảm bảo tính kế thừa để phát huy tối đa những ưu điểm, bổ trợ những hạn chế giữa các thế hệ; đội ngũ này vừa ổn định vừa có những điểm sáng đột phá gắn với xu hướng trẻ hoá, chuẩn hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển khởi sắc của tỉnh nhà cũng đang tạo ra môi trường tốt để nhiều người trẻ chọn trở về gắn bó lập thân, lập nghiệp.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài 2: Những tín hiệu tích cực

Năng nổ, nhiệt huyết, nhạy bén và dám nghĩ, dám làm đang là những ghi nhận, đánh giá của các cấp uỷ đảng, chính quyền và Nhân dân khi nói về những người trẻ tuổi hoạt động ở ấp, khóm. Không khí tươi mới với nguồn năng lượng tích cực của đội ngũ trẻ đã thực sự trở thành điểm sáng ở nhiều địa bàn ấp, khóm ở Cà Mau trong hành trình phát triển. Ðó cũng là gợi ý hữu ích để Cà Mau tiếp tục công việc chuẩn hoá, trẻ hoá; tăng cường chất lượng và xây dựng đội ngũ kế thừa đảm đương nhiệm vụ ở khóm, ấp trong bối cảnh hiện nay.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng

Thực tế đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở ấp, khóm trong việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Ðây là cánh tay nối dài của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp, sâu sát nhất với Nhân dân. Mọi chuyển động của cấp “cơ sở của cơ sở” sẽ quyết định đến việc thành hay bại của một quyết sách, một chủ trương, một phong trào... gắn với nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của từng địa phương.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.