![]() |
Các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND tỉnh chụp ảnh lưu niệm với các đại biểu tại buổi họp mặt trí thức, văn nghệ sĩ và nhà báo. Ảnh: L.T.L |
Các cuộc họp mặt chúc mừng, viếng thăm ấy trước hết đã tạo một tinh thần vui như mùa xuân, để rồi sau đó nhiều người tự hỏi rằng mình đã cống hiến những gì cho Bạc Liêu mà được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt như thế. Để rồi từ đó nhiều văn nghệ sĩ, nhà báo đã tỏ rõ tấm lòng bằng sự cống hiến, bằng khát vọng vì một Bạc Liêu phát triển. Và những cuộc viếng thăm, chúc mừng ấy đã gợi mở cho người ta nhìn ngắm thái độ văn hóa, sự quan tâm chăm lo phát triển văn hóa, trong đó có VHNT là một bộ phận đặc biệt tinh tế và nhiều đặc thù của văn hóa, của lãnh đạo tỉnh. Khi ngắm nhìn bức tranh tổng quan sự vận động phát triển của văn hóa trong 2 năm gần đây, từ sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, người ta đã vui mừng, ngạc nhiên thú vị khi nhận ra đã có một bước đi dài trong tư duy văn hóa ở cấp vĩ mô. Đó là một tư duy trí tuệ, nắm bắt đầy đủ quy luật khách quan của sự vận động phát triển. Từ đó, trong đường hướng phát triển tỉnh Bạc Liêu, văn hóa được chú trọng đặc biệt, bởi nó vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển, vừa là nền tảng tinh thần vừa là sức mạnh nội sinh quan trọng, trực tiếp của phát triển. Không có hoặc thiếu hàm lượng văn hóa thì chỉ có tăng trưởng chứ không có phát triển. Đó là sự tăng trưởng thô, thiếu sự phát triển bền vững. Thế cho nên tư duy nói trên đã thể hiện được sự hài hòa tương xứng trong mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa. Đồng thời, khuynh hướng phát triển văn hóa của Bạc Liêu cũng cho thấy sự trở về nguồn, quay về với tâm hồn dân tộc - những thứ vững bền như núi mà cái thâm sâu của chữ “Phúc”, truyền thống chúc phúc của dân tộc ta và đường hướng vận động phát triển văn hóa gần đây đã nói lên điều đó. Và điều đó cũng nói lên rằng, đó là một khuynh hướng đúng đắn vì nền văn hóa của ta là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Báo cáo chính trị của Đại hội XIV đánh giá như sau: “Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân được nâng lên. Những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc như “uống nước nhớ nguồn”, “tương thân, tương ái”… được phát huy, phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được thực hiện theo hướng coi trọng chất lượng. Một số công trình văn hóa lịch sử được đầu tư xây dựng, tôn tạo. Hoạt động của VHNT, văn hóa, báo chí có những đóng góp tích cực…”.
Thế nhưng văn kiện này cũng nhìn nhận rằng: “Việc lãnh đạo, chỉ đạo phát triển văn hóa chưa tương xứng với phát triển kinh tế; tính hình thức và bệnh thành tích chưa khắc phục; tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, nhất là ở một bộ phận thanh thiếu niên rất đáng lo ngại. Tinh thần tự hào dân tộc, lòng tự trọng, trách nhiệm xã hội, ý thức tôn trọng pháp luật… của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Nếp sống văn minh, nhất là ở khu vực đô thị còn nhiều mặt yếu kém. Chất lượng hoạt động văn hóa nhìn chung còn thấp...”.
Xuất phát từ tình hình trên, Đại hội XIV đã đặt ra mục tiêu phát triển văn hóa, VHNT giai đoạn 2010 - 2015 như sau: phải giải quyết cho được mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Thế cho nên phải tạo sự chuyển biến rõ nét trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò của văn hóa trong cuộc sống… Đầu tư toàn diện để văn hóa phát triển tương xứng với phát triển kinh tế; phấn đấu trong nhiệm kỳ đại hội có được những công trình văn hóa trọng điểm của khu vực. Coi trọng việc bảo tồn, tái tạo, phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa đáp ứng ngày càng cao nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Quan tâm chỉ đạo phát triển VHNT, phấn đấu có được các công trình văn hóa phi vật thể, các tác phẩm VHNT có chất lượng cao…
Chúng ta thấy nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đã thể hiện một tầm nhìn, một tư duy rất mới về VHNT. Nó vừa đặt vị trí văn hóa, VHNT đúng với lợi thế của một tỉnh giàu truyền thống văn hóa, vừa phù hợp với các luận điểm trực tiếp về văn hóa theo Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng, và phù hợp với các quy luật của sự phát triển bền vững.
![]() |
Lãnh đạo tỉnh và các cơ quan chức năng khảo sát tiềm năng du lịch tại các khu nhà cổ Bạc Liêu, thực hiện mục tiêu của NQ 02 về “gắn du lịch với quảng bá, giới thiệu truyền thống lịch sử và văn hóa của địa phương”. Ảnh: C.T |
Trong số báo trước, chúng tôi đã trình bày yêu cầu, mục tiêu phát triển văn hóa của Nghị quyết (NQ) Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV và nhìn nhận đó là một NQ chăm lo phát triển văn hóa, VHNT bằng một tầm nhìn, một tư duy rất mới. Đó là tư duy xử lý mối quan hệ tương xứng giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa; đặt văn hóa lên một vị trí đặc biệt có vai trò làm động lực phát triển. Chính điều đó mà khi NQ XIV đi vào cuộc sống đã tạo ra một thực tiễn vô cùng sinh động.
Xin lấy một ví dụ: Để thực hiện NQ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, vào tháng 7/2011, Tỉnh ủy ban hành đồng thời 2 NQ: NQ 01 “về xây dựng TP. Bạc Liêu lên đô thị loại II - thành phố xanh - sạch - đẹp và văn minh”; NQ 02 “về đẩy mạnh phát triển du lịch”. Khi nghiên cứu cả hai NQ thì chúng tôi phát hiện ra một điều vô cùng thú vị: NQ 02 (và cả một phần của NQ 01) có tên tuổi hẳn hoi là “Đẩy mạnh phát triển du lịch”, tức là làm kinh tế du lịch nhưng khi tiếp cận nó một cách kỹ lưỡng thì thấy đây là một NQ phát triển văn hóa trước khi hoặc song hành làm kinh tế du lịch.
NQ 02 đã nhận diện khá đầy đủ “khuôn mặt văn hóa” của đất Bạc Liêu sau 300 năm người Bạc Liêu kế tục nhau khai mở và xây dựng vùng đất của mình. Đó là những dấu ấn làm nên văn hóa, làm nên bản sắc Bạc Liêu như: Cao Văn Lầu với Dạ cổ hoài lang; Công tử Bạc Liêu, Cao Triều Phát, Đồng Nọc Nạng, Ninh Thạnh Lợi, Đền thờ Bác Hồ, Tháp cổ Vĩnh Hưng, Đồng hồ đá Thái dương…, những dấu ấn văn hóa, những di tích lịch sử được chỉ rõ và có chính sách tôn tạo, giữ gìn, phát huy.
Song song đó, NQ 02 cũng có một cái nhìn cởi mở và sâu sắc đến văn hóa cộng cư của ba dân tộc, văn hóa tín ngưỡng, văn hóa dân gian, văn hóa truyền thống và cả văn hóa ẩm thực. Nhận diện đầy đủ, có chính sách phát triển để huy động mọi nguồn lực văn hóa là yêu cầu của NQ 02. Ví dụ như khôi phục và phát huy các lễ hội truyền thống hàng năm như: Lễ hội Dạ cổ hoài lang, lễ hội Đồng Nọc Nạng, lễ hội Quán âm Nam Hải, lễ hội Nghinh Ông, lễ hội Oóc-om-bóc, lễ hội Vu lan, Thanh minh, Kỳ yên… Đồng thời xây dựng các câu lạc bộ biểu diễn, phát triển một số loại hình nghệ thuật truyền thống đặc sắc của ba dân tộc: Kinh, Khmer, Hoa.
Khuyến khích trùng tu sửa chữa các đình, chùa, miếu… Và thật là sâu sắc khi NQ 02 còn yêu cầu khuyến khích giữ gìn kiến trúc truyền thống nhà ở của ba dân tộc. Đây là kiến trúc đặc trưng ĐBSCL, trong “văn hóa ở” của Việt Nam. Cả hai NQ đều có yêu cầu “xây dựng và phát huy tính hiếu khách, văn minh, lịch thiệp của người dân”, qua đó cho thấy cả hai NQ đặt ra vấn đề giữ gìn và phát huy tính cách hiếu khách, hào hiệp đặc trưng của con người Bạc Liêu và miệt Hậu Giang đã hình thành từ điều kiện xã hội, tự nhiên trong tiến trình khẩn hoang, xây dựng hàng mấy trăm năm qua. NQ 02 cũng đặt ra yêu cầu phải xây dựng Bảo tàng tỉnh quy mô, hiện đại và một số trung tâm triển lãm để sưu tầm, trưng bày, giới thiệu lịch sử hình thành vùng đất Bạc Liêu và văn hóa đặc trưng của ba dân tộc cư trú chủ yếu trên đất này.
Món ăn ngon, đặc sản của Bạc Liêu cũng được NQ 02 yêu cầu huy động và nâng lên để qua đó giữ gìn và phát triển văn hóa ẩm thực của Bạc Liêu.
Đồng thời NQ 02 cũng giao việc cho VHNT, để tạo điều kiện cho VHNT cùng phát triển, đó là việc chụp ảnh, làm phim, viết sách… Còn đối với NQ 01 “về xây dựng TP. Bạc Liêu lên đô thị loại II - thành phố xanh - sạch - đẹp và văn minh” cũng nhằm đạt nhiều mục tiêu về phát triển văn hóa. Xin nêu một ví dụ, phản ánh nét lớn của ý đồ này: “phát huy tối đa về tự nhiên, lịch sử và tính cách con người Bạc Liêu để tạo bản sắc riêng trên một số lĩnh vực của TP. Bạc Liêu so với các thành phố trong vùng và cả nước”.
Chúng ta thấy rằng, nếu thực hiện tốt các yêu cầu, mục tiêu của NQ 02 (và cả NQ 01) như trên đã viện dẫn thì các đặc điểm lớn về văn hóa, lịch sử của Bạc Liêu sẽ được huy động đầy đủ, hồn cốt của 300 năm người Bạc Liêu đi khai phá, xây dựng vùng đất của mình sẽ được vực dậy… để kiến tạo nên một Bạc Liêu rất khác - một Bạc Liêu đậm đà bản sắc và thẩm sâu văn hóa. Tóm lại, có thể khẳng định một lần nữa NQ 02, trước tiên là một NQ về phát triển văn hóa. NQ nêu rõ: “gắn du lịch với quảng bá, giới thiệu truyền thống lịch sử và văn hóa của địa phương; dựa vào truyền thống lịch sử, văn hóa của địa phương để phát triển du lịch”.
Theo ý này thì kinh tế du lịch là làm căn cứ để phát triển văn hóa và kinh tế du lịch phải dựa vào văn hóa để phát triển.
![]() |
Lãnh đạo tỉnh và ngành chức năng khảo sát chùa Xiêm Cán để tính đến hướng phục vụ du lịch. Ảnh: C.T |
Trong số báo trước chúng tôi đã lý giải để nhìn nhận NQ 02 là NQ phát triển văn hóa trước khi hoặc song hành làm kinh tế du lịch. Với chúng tôi, đây là một tư duy mới, sâu sắc và rất độc đáo. Thế cho nên chúng tôi đã nhìn ngắm nó từ nhiều góc độ khác nhau.
Trước tiên, NQ 02 là NQ cụ thể hóa NQ của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV (sau đây xin gọi tắt là NQ XIV), là đưa NQ vào cuộc sống để thực hiện các yêu cầu nhiệm vụ, mục tiêu của NQ này. Về kinh tế, NQ 02 đã đáp ứng được yêu cầu của NQ XIV qua việc nâng ngành kinh tế du lịch vốn chiếm tỷ trọng kinh tế rất thấp lên thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Đây là bước đi táo bạo nhưng có căn cứ của một vùng đất giàu tiềm năng du lịch về văn hóa lịch sử, đồng thời hàm chứa khát vọng phát triển, một tình yêu quê hương sâu sắc.
Còn về văn hóa thì NQ 02 đáp ứng, giải quyết nhiều vấn đề. NQ XIV nêu: “Trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển văn hóa chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế…; chất lượng hoạt động văn hóa nhìn chung còn thấp…”, thế cho nên việc coi trọng văn hóa, VHNT, huy động nó và có chính sách phát triển để làm động lực kinh tế như NQ 02 là khắc phục các nhược điểm mà NQ XIV đã nêu. Qua đó cũng thực hiện được yêu cầu “đảm bảo hài hòa, tương xứng giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa” mà NQ Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng và cả NQ XIV đều có yêu cầu. Kế đến là việc huy động mọi nguồn lực văn hóa lịch sử, VHNT, có chính sách đầu tư phát triển để phát huy phục vụ du lịch của NQ 02 cũng chính là để đáp ứng, thỏa mãn một khối lượng rất lớn yêu cầu chăm lo phát triển văn hóa, VHNT mà NQ XIV đặt ra phải hoàn thành trong nhiệm kỳ.
Đồng thời NQ 02 cũng đáp ứng được yêu cầu của NQ XIV về một nội dung rất mới đã qua tổng kết thực tiễn trong thời gian gần đây và dự báo triển vọng trong thời gian tới là “gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hóa, văn nghệ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa với phát triển du lịch”…
Còn một góc nhìn nữa mà chúng tôi nghĩ cần phải được ngắm nghía kỹ lưỡng, đó là góc nhìn những vấn đề, những mối quan hệ thuộc nội tại của NQ 02. NQ 02 huy động mọi nguồn lực văn hóa lịch sử để dựa vào đó mà phát triển du lịch chính là biết dựa vào tiềm năng lợi thế của một tỉnh vốn có truyền thống văn hóa. Đồng thời, với cách làm huy động văn hóa lịch sử, có chính sách phát triển rồi mới khai thác du lịch hoặc song hành khai thác để nó tác động hỗ trợ làm nguồn lực cho nhau cùng phát triển là một cách làm ăn căn cơ, như ông bà xưa nói: “Có trồng tỉa mới gặt hái”. Không để xảy ra cách làm “ăn bám” văn hóa lịch sử như trước đây. Cách làm có hậu này là cách phát triển bền vững mà các quốc gia có nền du lịch phát triển như Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Xing-ga-po… đã làm mà trong các bài viết trước chúng tôi đã có dịp nói đến.
Việc huy động văn hóa lịch sử để dựa vào đó làm du lịch và hệ quả là cả hai cùng vận động, phát triển đã giải quyết rất tốt mối quan hệ nội tại của NQ 02, đó là mối quan hệ hài hòa tương xứng giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa.
NQ 02 nêu những vấn đề mà nó quan tâm giải quyết bằng ngôn từ chính trị khô khan nhưng khi chúng tôi tiếp cận nó bằng lăng kính văn học, bằng trái tim, tâm hồn của người con Bạc Liêu thì cảm nhận được những điều dễ xúc động và đầy suy tưởng. Đó có thể là một mái chùa rêu phong, một nếp sinh hoạt đồng quê xưa cũ, hay một mái nhà lá đơn sơ - nơi ta che nắng che mưa suốt thời tuổi nhỏ; một câu hò chèo ghe, một làn điệu “Dạ cổ hoài lang” làm xao xuyến tâm hồn nhiều thế hệ; một tấm lòng của người Bạc Liêu son sắt với Bác Hồ, với cách mạng; hoặc một món ăn thời tấm mẳn; một dòng sông nơi em gái ta chèo xuồng trong tà áo bà ba hiền dịu; một cánh cò bay lả, gợi ta nhớ đời mẹ ta nghèo như thân cò lặn lội đồng sâu… Tất cả được nhắc đến, được huy động và được chăm chút bởi một bàn tay êm ái qua các chính sách, các chủ trương phát triển.
Nhìn vào đó chúng tôi bắt gặp một cái nhìn cởi mở, nhất là đối với văn hóa tâm linh, văn hóa tín ngưỡng; nhìn vào đó chúng tôi thấy hồn cốt của 300 năm tiền nhân đi khai mở, đấu tranh và dựng xây đất này được quy tụ; nhìn vào đó chúng tôi bắt gặp khúc tự tình quê hương quay về với tâm hồn Bạc Liêu, tâm hồn dân tộc.
Một cái nhìn cởi mởi, sâu sắc và thiết tha luôn là một cái nhìn sáng tỏ, nhận diện được những giá trị của đời sống xã hội từ cổ chí kim. Những giá trị ấy là tâm hồn, tính cách của vùng đất và nó chính là văn hóa. Góp nhặt, phát triển những giá trị ấy chính là làm sâu sắc thêm bản sắc văn hóa của vùng đất. Bản sắc văn hóa là sức mạnh của Bạc Liêu, bởi văn hóa luôn là nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng, trực tiếp của phát triển.
![]() |
Lãnh đạo tỉnh chụp ảnh lưu niệm với người thân của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu trong lễ giỗ Tổ cổ nhạc (12/8) năm 2011. Ảnh: Q.H |
Trong số báo trước, chúng tôi đã mạo muội nhìn nhận rằng NQ 02 của Tỉnh ủy “về đẩy mạnh phát triển du lịch” là một NQ phát triển văn hóa trước khi hoặc song hành làm kinh tế du lịch. Và chúng tôi cho rằng, chính sự quan tâm chăm lo phát triển văn hóa, VHNT, đặt văn hóa trong mối quan tâm phát triển đặc biệt của NQ 02 đã giải quyết tốt nhiều vấn đề nội tại của NQ này, đồng thời đáp ứng nhiều yêu cầu, nhiệm vụ, mục tiêu về văn hóa của NQ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV. Trong số báo này, chúng tôi muốn đề cập đến một vấn đề rộng hơn là xem xét mối quan hệ giữa văn hóa và sự phát triển, xem sự quan tâm đặc biệt để phát triển văn hóa, VHNT của tỉnh đã giải quyết được những vấn đề gì cho sự vận động phát triển của Bạc Liêu.
Đây là một vấn đề lớn, cần những luận cứ khoa học, để thông tin một cách thuyết phục, chúng tôi đã trích dẫn phát biểu của các giáo sư, tiến sĩ (GS, TS) nguyên là lãnh đạo Đảng và Nhà nước và phát triển bài viết này trên tinh thần cuộc hội thảo khoa học - thực tiễn toàn quốc về “mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa trong thời kỳ CNH, HĐH” được Hội đồng lý luận phê bình VHNT Trung ương tổ chức tại TP. HCM vào tháng 12/2011.
GS-TS Đinh Xuân Dũng, Phó Chủ tịch Hội đồng lý luận VHNT Trung ương đã nói về sự phát triển như sau: “…Nội hàm của phát triển bao hàm và chỉ rõ sự tiến triển, tiến bộ về mặt chất lượng của xã hội, của phẩm chất giá trị con người, trong đó bao gồm cả việc gia tăng về sản lượng và cơ cấu kinh tế, đồng thời cả việc nâng cao mức sống toàn dân và gắn chặt với trình độ phát triển hài hòa, toàn diện của con người, phát triển văn hóa của xã hội”… Khái quát nêu trên cho ta thấy rằng, sự phát triển xã hội được cấu thành bởi hai nhân tố: kinh tế và văn hóa. Thế cho nên GS. Nguyễn Đức Bình, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị đã nói: “…Đời sống xã hội có hai mặt: vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của đời sống xã hội thì văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội”. Khái quát khoa học đó cho thấy tất cả tầm rộng lớn và sâu sắc của văn hóa, từ đó dẫn đến nhiều khía cạnh lý luận cùng những kết luận thực tiễn hết sức quan trọng. Xã hội đứng hai chân trên hai “nền tảng”, nếu chỉ có một nền tảng thì xã hội không đứng vững.
Với tính cách là “nền tảng tinh thần của xã hội”, văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế. NQ Trung ương 5 nêu: “Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa vì sự công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện”.
Những nhìn nhận, đánh giá, kết luận trên cho thấy vai trò cực kỳ quan trọng của văn hóa trong sự phát triển xã hội. Không có nó hoặc thiếu nó thì sẽ không có sự phát triển bền vững. NQ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đánh giá rằng: “Việc lãnh đạo, chỉ đạo phát triển văn hóa chưa tương xứng với phát triển kinh tế…”. Đây là một cái nhìn đúng thực chất không chỉ ở Bạc Liêu mà nó diễn ra ở nhiều nơi trên cả nước, dẫn đến một thực trạng sự phát triển của xã hội thiếu đồng bộ, thiếu nhân tố bền vững. Về vấn đề này, GS-TS Đinh Xuân Dũng nói đại ý như sau:
Đã qua có hiện tượng chỉ lo phát triển kinh tế đa thuần. Cho rằng kinh tế và khoa học, công nghệ là nhân tố quyết định sự phát triển, còn yếu tố về văn hóa không đóng góp trực tiếp cho phát triển. Với quan niệm lệch lạc này, những nhân tố quan trọng về văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội - đã bị bỏ qua hoặc không quan tâm đúng mức, đúng vai trò, sức mạnh của nó. Sai lầm trong quan niệm trên là ở chỗ coi tăng trưởng kinh tế tự nó sẽ giải quyết những vấn đề về văn hóa, xã hội. Hậu quả của nó là tuy đi cùng với sự tăng trưởng của kinh tế nhưng xã hội lại suy thoái về mặt đạo đức lối sống, xuống cấp về văn hóa và đời sống tinh thần của con người, của cộng đồng. Thế cho nên ta thấy rằng không chỉ có ăn ngon, mặc đẹp, vật chất đầy đủ là có lối sống, nếp sống đẹp, lành mạnh tiến bộ, hôn nhân bền chặt, con cái hiếu hạnh, gia đình thương yêu chăm lo lẫn nhau…
Tình trạng thiếu quan tâm đến văn hóa còn làm nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc về văn hóa, đạo đức, làm cho những người hoạt động và sáng tạo văn hóa, VHNT cảm nhận không được coi trọng như trước, từ đó giảm sút niềm tin, tâm huyết nhiệt tình và năng lực sáng tạo của họ. Chủ nghĩa thực dụng kinh tế đang có chiều hướng phát triển và là nguy cơ thật sự của phát triển bền vững và của sự sa sút trên lĩnh vực tinh thần, đạo đức, sáng tạo văn hóa, VHNT.
Chính từ nguy cơ trên mà văn kiện Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ XI yêu cầu: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
Còn Tổng Giám đốc UNESCO thì đã nhấn mạnh khẳng định một quan niệm mới, sâu sắc có giá trị phổ quát toàn cầu trong thời đại hiện nay: “Kinh nghiệm của 2 thập kỷ vừa qua cho thấy rằng, trong mọi xã hội ngày nay, bất luận ở trình độ kinh tế, xu hướng chính trị, kinh tế nào, văn hóa và phát triển là hai mặt gắn liền nhau. Nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế tách rời môi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra mất cân đối nghiêm trọng, cả kinh tế, văn hóa và tiềm năng sáng tạo của nước ấy bị suy giảm… Phát triển cần thừa nhận văn hóa giữ vị trí trung tâm và vai trò điều tiết xã hội”.
Chính vì nhận thức đầy đủ vai trò, sức mạnh của nguồn lực văn hóa trong vận động phát triển, hiểu đầy đủ các quy luật phát triển mà NQ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV nêu yêu cầu: “…đầu tư toàn diện để văn hóa phát triển tương xứng với tăng trưởng kinh tế và nhu cầu của nhân dân. Phấn đấu trong 5 năm tới có được những công trình văn hóa công cộng đạt tầm cỡ khu vực… coi trọng việc bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa…; quan tâm chỉ đạo phát triển sự nghiệp VHNT…”. Mục tiêu, yêu cầu này của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đã tỏ ra rất phù hợp với tư duy phát triển của thời đại, đảm bảo nhân tố về văn hóa cho sự phát triển bền vững.
![]() |
Lãnh đạo tỉnh, TP. Bạc Liêu và ngành chức năng tham gia Tour du lịch mẫu “Một thoáng Bạc Liêu”, do UBND TP. Bạc Liêu tổ chức. Ảnh: C.T |
Trong số báo trước, chúng tôi đã viện dẫn để chứng minh rằng: Chăm lo phát triển văn hóa, VHNT là đảm bảo nhân tố cho sự phát triển bền vững. Từ tư duy này chúng ta có được một góc nhìn tương đối mới về NQ 02 của Tỉnh ủy.
Chúng tôi đã nói rằng, NQ 02 là một NQ phát triển văn hóa, VHNT trước khi hoặc song hành làm kinh tế du lịch. Chính vì đặt văn hóa, VHNT trong sự quan tâm phát triển đặc biệt đã giải quyết được yêu cầu nội tại của NQ này, ngoài ra, nó còn tham gia giải quyết, làm thỏa mãn một khối lượng khá lớn yêu cầu cần phát triển văn hóa, VHNT của NQ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV. Từ đó có một nhận thức mới cần được hiểu sâu sắc: Chúng ta có thể đặt ra một giả định, nếu yêu cầu kinh tế của NQ 02 đạt không cao thì không có gì đáng buồn cả, bởi chúng ta đã đạt được một mục tiêu khác, vượt ra khỏi phạm vi, biên độ của NQ 02, đó là mục tiêu tham gia phát triển văn hóa, VHNT - nhân tố cho sự phát triển Bạc Liêu bền vững.
Sự nghiệp chăm lo phát triển văn hóa, VHNT của tỉnh Bạc Liêu không chỉ có trong NQ 02, trong tư duy lý luận trên các văn bản của các NQ, mà thực tế 2 năm qua, trước và sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, chúng ta đã thấy một hành động thực tiễn vô cùng phong phú và gặt hái được nhiều thành tựu.
Trước tiên, chúng ta nhìn ngắm bức tranh tổng quan của Bạc Liêu qua hơn 2 năm vận động và phát triển. Bắt đầu từ năm 2010, chúng ta đã thấy có sự bứt phá trong sự chỉ đạo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Từ đó, bức tranh của Bạc Liêu có những thay đổi hết sức quan trọng, TX. Bạc Liêu tiến lên thành phố, thu hút đầu tư rõ rệt, nhiều doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn của quốc gia đến với Bạc Liêu để đầu tư, chỉ số cạnh tranh tăng nhanh, năm 2010 tăng 29 bậc so với năm 2009, đối ngoại được mở rộng, các dự án động lực được bổ sung vào quy hoạch quốc gia (Cảng biển Gành Hào, Trung tâm nhiệt điện, Nhà máy điện gió…).
Bước sang năm 2011, tỉnh Bạc Liêu lại gặt hái nhiều kết quả rất ấn tượng trên nhiều lĩnh vực. Tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao, đạt 12%. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế, xã hội đều đạt và vượt kế hoạch. Thu ngân sách vượt 27,7%, thu nhập bình quân đầu người đạt 25 triệu đồng, gia đình chính sách và các hộ nghèo được quan tâm chăm lo hơn bao giờ hết. TP. Bạc Liêu và các trung tâm đô thị, các huyện được xây dựng khang trang, sạch đẹp và văn minh hơn trước. Nhiều công trình quan trọng về giao thông, y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao được hoàn thành và đưa vào sử dụng đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Một số dự án, công trình như Bac Lieu Tower, Nhà máy bao bì Dầu khí đã hoàn thành; dự án điện gió, khu du lịch Hồ Nam, khu du lịch Công tử Bạc Liêu đang triển khai.
Bước sang năm 2012, với quyết tâm đạt kết quả cao hơn, toàn diện hơn năm 2011, Bạc Liêu đẩy nhanh thi công các dự án động lực: mở rộng Nhà máy điện gió Bạc Liêu thành Trung tâm điện gió ĐBSCL, khởi công Cảng biển Gành Hào, nghiên cứu khảo sát để đầu tư xây dựng cảng trung chuyển nước sâu 100 ngàn tấn. Khởi động Trung tâm nhiệt điện Cái Cùng, khởi công xây dựng khu phức hợp Bac Lieu Tower 2, khai thác tòa nhà Bac Lieu Tower 1, khởi công một số dự án về sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và du lịch. Khởi công một số công trình quan trọng về văn hóa, giáo dục như: Trung tâm triển lãm văn hóa - VHNT, Bảo tàng tỉnh, nhà thi đấu đa năng, ký túc xá sinh viên, trường đại học, cao đẳng nghề. Tiếp tục triển khai thực hiện tốt NQ 01, 02 của Tỉnh ủy; làm tốt công tác giảm nghèo, chăm lo cuộc sống cho gia đình chính sách, bảo đảm an sinh xã hội.
Trên đây là một cái nhìn tóm tắt sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Bạc Liêu qua hơn 2 năm, trước và sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV mà chúng tôi trích dẫn từ ý kiến phát biểu của ông Võ Văn Dũng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh nhân ngày đầu năm mới 2012 và ngày Bạc Liêu tròn 15 năm tái lập tỉnh. Với chúng tôi, đây là một cái nhìn thực chất bức tranh phát triển của Bạc Liêu, mà gần như ai cũng phải thừa nhận rằng, đó là bức tranh của thời kỳ Bạc Liêu phát triển nhanh nhất.
Quan sát bức tranh hơn 2 năm phát triển, chúng ta thấy nền kinh tế Bạc Liêu tăng trưởng ổn định, thiết lập được nền tảng cho sự phát triển kinh tế vững chắc trong tương lai. Qua đó, chúng ta cũng thấy được sự quan tâm chỉ đạo đúng mức trong phát triển kinh tế. Đây là một đường hướng đúng. GS-TS Đinh Xuân Dũng nói: “Tăng trưởng kinh tế là điều kiện thiết yếu để nâng cao mức sống của con người, có vị trí rất quan trọng vì nó thể hiện khả năng đáp ứng các nhu cầu vật chất đa dạng, ngày càng cao của con người. Như vậy, đối với một quốc gia, để đạt được mục tiêu phát triển, đáp ứng các nhu cầu vật chất của xã hội, nhất thiết phải có sự tăng trưởng cao về kinh tế, về cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ”.
![]() |
Một tiết mục văn nghệ chào mừng kỷ niệm 90 năm ngày ra đời bản Dạ cổ hoài lang. Ảnh: P.T.C |
Quan sát các yêu cầu của NQ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV và hoạt động thực tiễn trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Bạc Liêu chúng tôi thấy đi liền với kinh tế là công tác chỉ đạo chăm lo phát triển văn hóa, VHNT. Ngoài các luận điểm trực tiếp về văn hóa của NQ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, như: “Đầu tư toàn diện để văn hóa phát triển tương xứng với kinh tế và nhu cầu của nhân dân…”, thì trong 8 vấn đề cốt lõi được xác định là những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong cả nhiệm kỳ Đại hội XIV, ta thấy đều trực tiếp hoặc gián tiếp có liên quan đến văn hóa. Có những vấn đề tưởng như không dính líu gì đến văn hóa: “…Tập trung giải quyết tốt các yêu cầu, khiếu nại, tố cáo của công dân”, thì chính là ta đang thực hiện mục tiêu của văn hóa vì sự công bằng, dân chủ và tiến bộ xã hội; hay như: “…Nâng cao năng lực và tâm huyết của đội ngũ cán bộ”, mới nhìn vào cứ tưởng đó là chuyện của “mấy ông cán bộ”, chuyện của nội bộ Đảng, nhưng thật ra đó là vấn đề liên quan trực tiếp đến văn hóa. Con người Việt Nam là sự kết tinh của nền văn hóa Việt Nam, nuôi dưỡng các phẩm chất, xây đắp các giá trị tinh thần, tư tưởng, tình cảm và nâng cao trình độ dân trí là chức năng không thể tách rời của văn hóa, VHNT; rồi: “…Thực hiện tốt công tác giảm nghèo và an sinh xã hội”…, đều có liên quan trực tiếp đến mục tiêu của văn hóa, vì sự tiến bộ của xã hội và hạnh phúc của nhân dân.
Trong các yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ của NQ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV cho thấy văn hóa được tăng cường để hài hòa tương xứng với kinh tế, văn hóa thấm sâu trong kinh tế, từ đó trong chỉ đạo thực hiện NQ XIV đã tỏ rõ sự chăm lo phát triển văn hóa. Đó là năm 2012 sẽ khởi công xây dựng Trung tâm triển lãm văn hóa, VHNT lớn nhất ĐBSCL, xây dựng Bảo tàng tỉnh hiện đại, nhà thi đấu đa năng, ký túc xá sinh viên, trường đại học, trường cao đẳng nghề. Trước đó, tỉnh Bạc Liêu đã xây dựng Đền thờ Bác Hồ, khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu, di tích đồng Nọc Nạng, Thư viện tỉnh, khu căn cứ Cái Chanh, khu di tích nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh, trùng tu tháp cổ Vĩnh Hưng… Đây là những công trình có ý nghĩa động lực phát triển văn hóa, VHNT.
Chưa bao giờ người nghèo, người có công được chăm lo như thời kỳ hơn 2 năm qua. Năm 2010, vận động các tổ chức, tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp đóng góp vào quỹ An sinh xã hội được 100 tỷ đồng; quỹ Vì người nghèo được 13 tỷ đồng; xây dựng 1.200 căn nhà tình thương cho hộ nghèo, đồng thời xây dựng 69 căn nhà tình nghĩa. Công tác giảm nghèo cũng được quan tâm đúng mức, 75 cơ quan, ngành tỉnh và 7 huyện, thành phố cùng với 277 doanh nghiệp đã nhận giúp đỡ 4.946 hộ nghèo, trao phương tiện, giúp đỡ hộ nghèo trị giá 13,5 tỷ đồng.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục - đào tạo, thể dục - thể thao… hơn 2 năm qua đều đạt kết quả đáng phấn khởi. Các kết quả ấy đều có liên quan đến sự chăm lo phát triển văn hóa, VHNT, vừa liên quan đến mục tiêu của văn hóa, vừa góp phần vực dậy, phát triển văn hóa truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, tinh thần “lá lành đùm lá rách” của dân tộc ta. Và đó cũng chính là góp phần xây đắp tâm hồn, tính cách của người Bạc Liêu.
Song song đó, các lễ hội văn hóa, lễ hội dân gian ở Bạc Liêu được quan tâm tổ chức như thời kỳ này, đó là lễ hội Dạ cổ hoài lang, lễ hội Đồng Nọc Nạng, lễ hội cúng Kỳ yên, lễ hội Nghinh Ông…
Và trên hết, bức tranh vận động phát triển của Bạc Liêu hơn 2 năm qua cho thấy, văn hóa, VHNT được quan tâm chăm lo phát triển vượt bâc, chưa từng có. Đi liền với tăng trưởng kinh tế là phát triển văn hóa, làm cho “văn hóa phát triển hài hòa, tương xứng với tăng trưởng kinh tế”, làm cho văn hóa thấm sâu trong kinh tế là thực hiện việc “làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ, thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh, quan trọng, trực tiếp của phát triển” theo yêu cầu của Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Đồng thời đảm bảo xây dựng một trong hai nền tảng là nhân tố để Bạc Liêu phát triển bền vững.
![]() |
Đồng chí Võ Văn Dũng - Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh tặng hoa cho người thân của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu nhân kỷ niệm 92 năm ngày ra đời của bản Dạ cổ hoài lang. Ảnh: P.T.C |
Riêng đối với lĩnh vực VHNT, NQ 23 của Bộ Chính trị xác định: “VHNT là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam”.
VHNT nằm trong văn hóa và có vai trò cực kỳ quan trọng. Hoạt động thực tiễn của hơn 2 năm chỉ đạo chăm lo phát triển văn hóa, đặt văn hóa trong mối quan tâm đặc biệt đã qua của tỉnh Bạc Liêu là đã quan tâm rất đăc biệt đối với VHNT. Và nó càng đặc biệt hơn khi ta thấy một quan điểm chỉ đạo rất mới mà đồng chí Võ Văn Dũng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh đã nói trong Đại hội Hội VHNT tỉnh năm 2011 như sau: “Bạc Liêu là đất văn hóa - văn nghệ, Tỉnh ủy, HĐND tỉnh muốn đầu tư cho văn hóa - văn nghệ, VHNT để nơi này trở thành một trong những trung tâm về văn hóa - văn nghệ, VHNT”. Và đồng chí khẳng định thêm: “Trong sự nỗ lực đi lên của Bạc Liêu, tôi cho rằng VHNT có thể làm thay đổi vị trí của tỉnh”.
Quan điểm chỉ đạo trên và sự quan tâm phát triển VHNT thời gian qua không chỉ đáp ứng yêu cầu của các chỉ thị, NQ của Trung ương mà còn nhìn nhận và phát triển đúng lợi thế, tiềm năng văn hóa, VHNT của tỉnh với một khát vọng phát triển rất đáng trân trọng.
Chính vì thế mà thực tiễn cho thấy rằng, chưa bao giờ VHNT được quan tâm như thời kỳ này, thời kỳ mà có người nói VHNT và văn nghệ sĩ có phúc. Chúng tôi còn nhớ tại Đại hội Hội VHNT (nay là Liên hiệp Hội) của tỉnh năm 2011, khi Chi hội Văn học trình bày tham luận với đại ý rằng đời sống của văn nghệ sĩ rất khó khăn, không thể sống bằng nhuận bút, trong khi đó lịch sử văn học của Bạc Liêu rất mỏng, chưa tạo được dấu ấn trên văn đàn Việt Nam, Bạc Liêu chưa bao giờ có một quyển tiểu thuyết. Nhà nước cần đầu tư chiều sâu để tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ sáng tạo tác phẩm cho Bạc Liêu…
Trong bài phát biểu đại diện Tỉnh ủy, UBND tỉnh của mình, đồng chí Võ Văn Dũng đã tuyên bố: “Tôi đề nghị Liên hiệp Hội có phương án, kế hoạch ngay, UBND tỉnh sẽ đầu tư chiều sâu hỗ trợ văn nghệ sĩ sáng tạo tác phẩm theo đề xuất của Chi hội Văn học”.
Năm 2010, giải thưởng VHNT Cao Văn Lầu ra đời và đã được tổ chức rất trang trọng, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với 13 người được trao giải lần thứ I vì có những đóng góp xuất sắc cho sự nghiệp VHNT Bạc Liêu. Sau đó là những buổi lễ tôn vinh cho vận động viên Dương Thị Việt Anh đoạt HCV Sea Games, hay nghệ sĩ Ngọc Đợi đoạt HCV giải Trần Hữu Trang… Và mới đây, khi làm việc với Liên hiệp Hội VHNT tỉnh cùng một số ngành, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy đã đồng ý để Liên hiệp hội VHNT cùng Sở VH-TT&DL phối hợp tổ chức đêm văn nghệ nhằm tôn vinh, tri ân hai soạn giả Yên Lang và Trọng Nguyễn.
Tết Nhâm Thìn vừa qua, lãnh đạo tỉnh chia nhau đi thăm, chúc Tết các văn nghệ sĩ có cống hiến xuất sắc đã thể hiện sự quan tâm chăm sóc của Đảng và Nhà nước đối với văn nghệ sĩ một cách cảm động. Điều này đã đáp ứng được yêu cầu NQ 23 của Bộ Chính trị: “Tài năng VHNT là vốn quý của dân tộc. Chăm lo phát hiện, bồi dưỡng, quý trọng và phát huy các tài năng VHNT là trách nhiệm của toàn xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước và của các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp. Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do sáng tạo, tạo điều kiện thuận lợi phát huy tính độc lập, khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo của văn nghệ sĩ…”.
Nhìn rộng ra, ta thấy sự quan tâm chỉ đạo phát triển sự nghiệp VHNT trong hơn 2 năm qua càng thêm sâu sắc. Khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu được xây dựng khang trang, nhiều cuộc hội thảo đã đề nghị được công nhận di sản văn hóa phi vật thể… qua đó nâng cao, khẳng định dấu ấn VHNT của Bạc Liêu. Sau đó là đề án nâng cấp Đoàn cải lương Cao Văn Lầu, đẩy mạnh phát triển phong trào ĐCTT… để xứng tầm là đất của Dạ cổ hoài lang, “chiếc nôi” của đờn ca tài tử Nam bộ.
Tiến đến 2012, Bạc Liêu sẽ khởi công xây dựng Trung tâm triển lãm VHNT cao 10 tầng, có trung tâm hội nghị 800 chỗ ngồi, rạp chiếu phim mini…; có kế hoạch xây dựng trường VHNT với tổng vốn đầu tư 50 tỷ đồng. Liên hiệp Hội VHNT được đầu tư trụ sở mới khang trang, to đẹp; biên chế và kinh phí được tăng cường, có chủ trương có tạp chí văn nghệ của Liên hiệp Hội chuẩn bị để phát triển. Cho phép xuất bản tập san ảnh, đẩy mạnh phong trào sáng tác ảnh và các loại hình khác cũng được vực dậy qua các phong trào, các cuộc thi cấp tỉnh, ĐBSCL… đã được Tỉnh ủy, UBND tỉnh cho phép và ủng hộ.
Và còn nhiều nội dung khác về sự quan tâm phát triển VHNT trong chỉ đạo của tỉnh ủy, UBND tỉnh trong 2 năm qua mà chúng tôi không có điều kiện nói hết trong loạt bài này.
Vấn đề còn lại là sự tự thân vận động đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và sự quan tâm chăm sóc của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ văn nghệ sĩ và các cơ quan quản lý VHNT. NQ 23 của Bộ Chính trị nêu yêu cầu: “…văn nghệ sĩ, người chiến sĩ xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cần phát huy lòng yêu nước nồng nàn, gắn bó máu thịt với nhân dân, nêu cao trách nhiệm công dân, sáng tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị phụng sự đất nước và dân tộc”.
Với yêu cầu trên và với việc chúng ta làm văn hóa, sống trên mảnh đất có truyền thống văn hóa, vì vậy thái độ văn hóa của chúng ta là lòng tự trọng. Đã đến lúc chúng ta nhìn ngắm nghệ phẩm của mình xem có xứng đáng với sự chăm sóc đặc biệt ấy không, có xứng đáng với quê hương máu thịt mình không?
Để kết thúc loạt bài này, chúng tôi muốn nhắc lại một lần nữa: Hơn 2 năm chăm lo phát triển văn hóa, VHNT trong thời gian qua là để tạo nên sự hài hòa tương xứng với tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa; là để xây đắp tạo dựng thêm cho nền tảng tinh thần phát triển - nhân tố đảm bảo cho Bạc Liêu phát triển toàn diện và bền vững.
Phan Trung Nghĩa