ĐT: 0939.923988
Thứ tư, 12-3-25 02:38:21
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975-30/4/2025)

Chiều Sài Gòn

Báo Cà Mau Tựa bài viết “Chiều Sài Gòn” nghe như chơi vơi, rất xưa, bởi Sài Gòn - Gia Ðịnh đã có hơn 300 năm tuổi, thì đồng nghĩa cũng có hơn một triệu buổi chiều. Nhưng “Chiều Sài Gòn” tôi viết đây chỉ là chiều 30/4/1975, buổi chiều đầu tiên “Sài Gòn ơi ta đã về đây” như lời bài hát một thời có sức hút mạnh mẽ.

TP Hồ Chí Minh năng động phát triển.                                         Ảnh:  CAO THỊ THANH HÀ

TP Hồ Chí Minh năng động phát triển. Ảnh: CAO THỊ THANH HÀ

Hơn 20 ngày trước khi giải phóng, tôi và Phượng Vũ đang khắc khoải vì tình hình chiến sự đang diễn ra sôi động (trường báo chí phải đóng cửa, các học viên ở xa thì nằm đó chờ lệnh, ở gần thì tranh thủ về địa phương, đơn vị) thì may mắn được cơ quan Trung ương Ðoàn miền Nam biên chế vào toán xung kích, gồm 5 anh em. Hành trang là chiếc võng ni-lông, bộ đồ, vải đắp, ruột tượng gạo và ít lương khô, riêng tôi còn được trang bị khẩu K54 và 2 gắp đạn. 20 ngày đêm, từ khu rừng Lò Gò đến chân núi Bà Ðen, những vạt rừng chồi xơ xác ở Củ Chi, nối đuôi nhau vượt sông Sài Gòn, những con rạch nhỏ, bạt ngàn thuốc lá ở Gò Vấp, lách qua những đồn bót dày đặc, phía trước là vầng sáng Sài Gòn.

Ðêm 30/4, bộ đội ta đã đột kích vào trường huấn luyện Quang Trung, ngót một vạn tân binh địch như ong vỡ tổ. Một tình huống ngoài dự kiến, chúng tôi phải dùng loa tay tập hợp số tân binh vào từng nhóm theo địa chỉ tỉnh - thành, nói một số điều ngắn gọn rồi tuyên bố cho họ tự tìm đường về gia đình. 11 giờ 30, tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Hơn 4 giờ, toán xung kích chúng tôi đã lên được chiếc xe dùng để đưa rước công nhân của hãng mì Vị Hương Tố, hướng đầu về trung tâm Sài Gòn. Người ngồi trên xe đã kín ghế, có người chỉ áo thun, quần cụt, không giày dép, cả người lái xe cũng vậy. Tôi nghĩ, họ là những tân binh vừa vứt bỏ bộ quân phục "Việt Nam Cộng hoà", cùng trèo lên để tìm đường về gia đình. Cái cảnh có vẻ trà trộn, nhưng giờ phút này ngôi thứ thắng - thua không có chỗ cho toan tính. Cạnh cửa bước lên, cán cờ được cột chặt, lá cờ của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tung bay trước gió.

Ngồi trên xe, không biết toán xung kích của tôi, hay bộ phận nào khác, chỉ huy và gồm những lực lượng nào. Trước mắt là xa lộ Ðại Hàn, vừa rộng, vừa láng bóng, mà lần đầu tiên trong đời tôi được biết, được đi trên lưng của nó. 10 tháng trước, từ Cơ Nhì - Khánh Bình - Trần Văn Thời, bắt đầu chuyến đi về miền Ðông với nào là ba lô, ruột tượng, ăng-go dùng để nấu ăn, vượt qua những con sông, khu rừng, những con đường độc đạo hiểm nguy, khi đặt chân đến con đường nhựa từ Túc Mía đến chợ Lục Sơn trên đất Campuchia tôi đã hả hê mừng.

Xe chạy chậm, phía sau còn mấy chiếc nữa. Có một điều rất lạ, những người ngồi trên xe ai nấy đều lặng thinh, ghế kế bên tôi là anh Nguyễn Hải Phong - toán trưởng, một thời sôi nổi "hát cho đồng bào tôi nghe", ngang dọc khắp hẻm hóc Sài Gòn - cũng kín tiếng; Phượng Vũ, nữ duy nhất trong toán, tuổi chớm tròn đôi mươi, con gái của một bác sĩ đã vượt Trường Sơn về Nam những năm sau đồng khởi, ngày nào vui miệng, hát hay, giờ cũng kín tiếng đến lặng lẽ. Phải chăng, giờ phút này, tin Sài Gòn được giải phóng, cuộc chiến tranh cách mạng 30 năm đã kết thúc, hơn 100 phút ngắn ngủi của buổi chiều Sài Gòn này mọi người không có đủ thời gian để chắt lọc những cảm xúc, không gợi những lời giao tiếp đúng cảnh. Lặng lẽ để cho niềm vui được thấm sâu vào đường gân, xớ thịt; cho hạnh phúc được tích tụ chờ lúc dâng trào.

Xe vẫn chạy chậm, các bản tin trên Ðài Phát thanh Hà Nội, Ðài Giải phóng và những mệnh lệnh của đài Sài Gòn từ chiếc radio nhỏ tôi mang theo như thúc giục người lái xe nhấn mạnh chân ga, trung tâm Sài Gòn đang đợi. Dừng lại bên chiếc xe tăng của ta bị trúng đạn, khói súng phủ màu đen, nòng pháo chúi xuống đất; trong căn nhà bên đường 2 chiến sĩ bị thương được băng bó nằm trên bộ vạt, còn người chết ở đâu? Không ai cầm được cảm xúc, Phượng Vũ lấy tay quệt nước mắt. Chỉ cần vượt qua cầu, những người chiến sĩ trẻ kia sẽ cùng cất cao bài ca chiến thắng. Sự hy sinh nào cũng là nỗi đau, nhưng ở điểm sát thềm chiến thắng, cái chết ấy càng đau đến tột cùng.

Những người ngồi trên xe đã thưa, càng đi sâu vào Sài Gòn, nhà cửa, phố phường càng đông đúc; đường phố không có khoảng trống để nhìn mặt trời đã xuống đến đâu, nó có màu đỏ sẫm khi chạm đến góc chân trời, những cụm mây đen như những dãy núi có hình thành khi mùa mưa sắp bắt đầu. Những lá cờ Mặt trận phấp phới trước cửa nhà, hiệu buôn, những cây chà ăng ten dọc bên đường chẳng khác lúc ở vùng giải phóng đã dùng cây, giăng dây để chống trực thăng đổ quân. Có đoạn, gặp phải những chiếc xe nhà binh đâm đầu vào vỉa hè, xăng dầu chảy ra lênh láng, có đoạn đụng phải một đống quần áo, dây thắt lưng, mũ sắt, bình ton vứt giữa đường. Càng chứng kiến các loại xe, quân trang, quân dụng vứt dọc đường tôi càng nhẩm ra chỉ có nội các Dương Văn Minh đầu hàng, còn lại hàng triệu quan lính đều bỏ chạy. Các quan lớn thì lên trực thăng đáp xuống các chiến hạm của Mỹ đậu ngoài khơi, hoặc bằng các loại máy bay tìm đến "mẫu quốc" Hoa Kỳ từ mấy ngày trước. Bỏ chạy từ Tây Nguyên, Vùng 1, các tỉnh ven biển miền Trung, Vùng 4, bỏ chạy ngay tại Sài Gòn một cách hỗn loạn chưa từng có của một cuộc chiến tranh xâm lược. Và, chỉ 2 ngày sau, khi tôi được phân công ngồi ở bàn tiếp nhận nguỵ quân - nguỵ quyền đến trình diện ở góc đường Yên Ðỗ, nay là đường Lý Chính Thắng, tôi đã gặp những người đã bỏ chạy đó. Viên đại uý cảnh sát tuổi chừng 40, vẻ rụt rè đặt khẩu Rulo nhỏ gọn, vừa vặn trong túi áo bà ba, 5 viên đạn sẵn trong ổ và 1 bao đựng chừng 100 viên đạn rời. Thành phố đã lên đèn, lung linh, những hàng cây cổ thụ tàn lá lẫn trong ánh đèn, đẹp lạ. Là người sinh ra ở đồng sâu, những kênh rạch, ngay cả cái chợ Cà Mau cũng chưa một lần đặt chân tới, giờ đây tôi như lạc lõng giữa Sài Gòn hoa lệ, hòn ngọc Viễn Ðông.

17 giờ 30, buổi chiều Sài Gòn sắp cạn, tôi không còn thì giờ để miên man, trước mặt là toà hành chính Quận 3, mục tiêu của toán xung kích phải đến. Qua cánh cổng, chúng tôi bước lên thềm, đi qua các phòng, theo cầu thang lên lầu chỉ gặp một người duy nhất, ông trạc trung niên, mặc bộ sơ mi không còn mới. Tôi không biết ông là cơ sở của ta hay nhân viên của toà hành chính còn ở lại. Với cử chỉ không mừng ra mặt, nhưng cũng không tỏ ra sợ hãi, ông chỉ cho chúng tôi đống súng đạn được gom lại gọn gàng, các tủ hồ sơ, tài liệu vẫn trật tự, ngăn nắp, những bóng đèn dường như không đủ sáng ở một toà nhà từng là hang ổ cai trị của chính quyền Sài Gòn để tiễn những người ra đi trong trăm mối ngổn ngang, đón người hân hoan vừa kịp đến. Sào huyệt của kẻ thù vậy ư? Vẫn những phòng tường vôi riêng biệt, bàn ghế, máy chữ, điện thoại bàn, tủ hồ sơ bất động, vô tư, ở căn phòng rộng lá cờ 3 que ủ rũ, chân dung tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không kịp gửi theo hắn sang Ðài Bắc trông trơ trẽn, nhục nhã. Chỉ khác là lòng dạ con người cùng một màu da, một dòng máu Lạc Hồng lại cam tâm làm người phản bội Tổ quốc, Nhân dân. Mỗi ngày chúng nó làm gì, bắt, giết những ai, tôi không có cơ hội để tỏ tường những con số, nhưng khi quan sát mọi thứ, bất giác tôi hơi lạnh người. Những ai đã hát “Mùa xuân đầu tiên” của Nhạc sĩ Văn Cao, hãy cho tôi gởi buổi chiều, đêm và cả bữa ăn đầu tiên ở Sài Gòn vào đấy.

Tôi muốn nói với Phượng Vũ, là người lính của Khu đoàn Tây Nam Bộ có mặt chiều Sài Gòn 50 năm trước, một buổi chiều đáng nhớ không chỉ riêng mình mà còn cả mấy mươi triệu người dân Việt. Dù có bộn bề gì, dù tuổi đã vào nhớ nhớ quên quên, chúng mình cũng nên dành chút thời gian thu gom những ký ức ở buổi chiều ấy, phải cho nó vào nỗi nhớ, nhớ cho đến khi nào mình không còn nhớ được nữa.

 

Nguyễn Thái Thuận

 

Huyền thoại biệt động thành Cà Mau

Thị xã Cà Mau những năm cuối thập niên 1950, dưới chế độ Mỹ - Diệm, không khí ngột ngạt bởi những cuộc càn quét, bắt bớ. Đám cảnh sát mật vụ, lính bảo an lùng sục khắp nơi, ráo riết truy lùng những người kháng chiến cũ, những người mà chúng nghi là "Việt cộng nằm vùng".

Thăm địa chỉ đỏ

Di tích Hồng Anh Thư Quán (số 43, đường Phạm Văn Ký, Phường 2, TP Cà Mau) là một trong những di tích lịch sử hiếm hoi ghi dấu chặng đường cách mạng của người Cà Mau trước năm 1930. Hồng Anh Thư Quán được công nhận Di tích lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia ngày 4/8/1992.

Tri ân người mở cõi

Ðầu xuân năm nay tôi được dự lễ khánh thành khu mộ thân tộc ông bà Phạm Hữu Liêm - Lê Thị Liễu, tại ấp Bàu Vũng, xã Tân Hưng, huyện Cái Nước. Chung quanh khu nghĩa mộ có mấy công trình phụ nhưng ý nghĩa đáng để mọi người suy ngẫm. Ðó là hồ sen, tuy diện tích không lớn nhưng ông Liêm giải thích sen là “Quốc hoa” của dân tộc Việt Nam, “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Phía tay phải là một hồ khác để nuôi cá các loại, chim le le và vịt trời. Phía sau công trình là một bờ cây đước xanh rờn, cao lớn.

Thêm hiện vật quý thời chống Pháp

Vừa qua, trong chuyến công tác tại TP Hồ Chí Minh, Bảo tàng tỉnh Cà Mau vinh dự được tiếp nhận một số hiện vật vô cùng quý giá, gồm 47 hình ảnh và 11 hiện vật liên quan đến 2 nhân vật lịch sử nổi tiếng của tỉnh Cà Mau, là Trần Văn Đại (Bí thư Tỉnh uỷ 1939-1940) và Trần Văn Thời (Bí thư Tỉnh uỷ 1940-1941). Toàn bộ số hiện vật này được ông Trần Hoà Bình, con trai của ông Trần Văn Đại (Tám Đại) hiến tặng.

Ba ông già tuổi tỵ

Ðó là ba ông già cùng làm ở Xưởng Quân giới (XQG) Cà Mau thời kháng chiến chống Mỹ. Nói về XQG này thì những người cùng thời, tham gia kháng chiến ở Cà Mau, hầu như ai cũng biết. Họ hay gọi là xưởng ông Ba Thợ Rèn (thường gọi là Ba Lò Rèn), vì ông Ba Thợ Rèn (Nguyễn Trung Thành) là người chịu trách nhiệm lập xưởng (đầu năm 1960) và rất nổi tiếng với việc sản xuất đạn pháo lăn-xà-bom, được tuyên dương anh hùng ngay đợt đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ (năm 1965); xưởng cũng hai lần được tuyên dương anh hùng.

Đi B

Nhà Bác sĩ Nguyễn Văn Thể nằm trên đường Hoàng Diệu, Phường 2, TP Cà Mau. Gian trước dành một khoảng khiêm tốn làm phòng mạch, thỉnh thoảng có vài bệnh nhân quen tới khám. Kế trong là bàn tiếp khách. Khắp phòng treo khá nhiều tranh ảnh nghệ thuật. Một cây đàn trên giá. Khi không có bệnh nhân thì ông thường ôm đàn, phong cách rất nghệ sĩ, và ông cũng thích giao du với giới văn nghệ sĩ Cà Mau.

Những lá thư còn lại

Tự nhận mình có viết thư, biết cảm nhận cái nghĩa, cái tình qua những bức thư ấy, một thời là công cụ giao lưu tình cảm gia đình, đồng đội, bạn bè, có khi là cánh én báo hiệu tình yêu nảy nở. Còn vì một tiếc nuối khác, chiến tranh đã kết thúc 50 năm, sứ mệnh của những lá thư đó cũng đã chấm dứt vai trò cầu nối của mình, những lá thư còn được giữ lại như một kỷ vật quý báu, nếu được xếp ở một góc nhỏ trong bảo tàng, chỉ những chữ đề “Con gái thương yêu của mẹ"; "Anh Chín kính mến"; "Em thân yêu...” người xem dễ chạm vào xúc động, bâng khuâng.

Ăn Tết ở làng rừng

Tôi đang mở trường tư thục, dạy trên 150 học trò. Bí thư Chi bộ xã Lương Hoà là đồng chí Tư Tài, đem nghị quyết Tỉnh uỷ Bến Tre rút tôi về Ban Văn nghệ tỉnh. Chưa kịp thu xếp đi, thì má tôi (bà Hồ Thị Luỹ) ở Cà Mau qua tới. Má tôi chẻ trái chuối xiêm ra, đưa cho tôi lá thư ngắn của anh Hai Thống (Trần Hữu Vịnh, Bí thư xã Khánh Bình Tây, sau này là Phó bí thư Tỉnh uỷ Minh Hải) kèm theo mấy lời chú Chín Thép, Uỷ viên Thường vụ xã (viết chung ý là “Đám giỗ làm lớn cúng ông bà, chú phải về quê nhà để cúng ông bà báo hiếu”).

Về địa chỉ đỏ...

Những ngày giáp Tết, lực lượng đoàn viên, thanh niên Công an tỉnh Cà Mau có chuyến về nguồn thăm các di tích lịch sử tiêu biểu

Miền nhớ thiêng liêng

Chuỗi hoạt động Kỷ niệm 70 năm Sự kiện tập kết ra Bắc diễn ra trang trọng, ý nghĩa trên đất Cà Mau. Ngược miền ký ức, những cán bộ, chiến sĩ, học sinh, đồng bào miền Nam như được sống lại giai đoạn thiêng liêng của cuộc chuyển quân lịch sử. Họ gặp lại nhau, cảm xúc dâng trào, bao câu chuyện về những ngày chiến đấu, lao động, học tập nối mạch ùa về...