ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 24-11-24 08:37:27
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Những con số "biết nói"

Báo Cà Mau (CMO) Bảy Ánh gầy gò như cây khô, da đen nhẻm, bộ đồ đi ruộng áo phèn vàng, chữ nghĩa chỉ lớp 4, thẳng tính như ruột ngựa, nhìn là biết “Made in nông dân” chính hiệu. Nhưng hơn chục năm nay, dân Tân Thành nói, cứ bình quân mỗi năm, Bảy Ánh có gần 200 "học trò" là nông dân ở khắp nơi trong cả nước tìm đến học nuôi cá chình. Ngày 13/10/2017, tại Hà Nội, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam tuyên dương 67 nông dân xuất sắc của cả nước trong 30 năm đổi mới, Bảy Ánh là đại biểu nông dân duy nhất ở Cà Mau có mặt.

Câu chuyện nông dân Bảy Ánh trở thành “tỷ phú” nuôi cá chình, “giáo sư” nuôi cá chình và có mặt tại Hà Nội trong năm nay bắt đầu từ năm 1995. Bảy Ánh tên thật Nguyễn Hữu Ánh, sinh năm 1957, quê quán ở Ấp 2, xã Tân Thành, nay là Khóm 1, phường Tân Thành, TP Cà Mau.

Gia đình ông Bảy Ánh rất nghèo, nhà chỉ có 15 công ruộng, cha mẹ ông phải nuôi tới 7 người con, Bảy Ánh là con trai út trong gia đình. Năm nào nhà ông cũng thiếu ăn vào mùa giáp hạt, mấy anh chị lớn không được đi học mà phải theo cha mẹ đi làm đất mướn. Bảy Ánh cũng không ngoại lệ, ông học được tới lớp 4, cũng phải bỏ học theo cha mẹ đi làm đất mướn. Năm 18 tuổi, Bảy Ánh trốn quân dịch 1 năm thì giải phóng. Trong thời gian trốn quân dịch, Bảy Ánh quen được cô Lê Thị Phúc, người cùng xã, cũng là bạn đời của ông.

Niềm vui của ông Bảy Ánh với chiếc Cup vừa được Trung ương Hội Nông dân Việt Nam khen tặng vào ngày 13/10/2017. Ảnh: ÁI NHƯ

Sau khi lập gia đình, cha mẹ chia cho vợ chồng ông 6 công đất, nhà còn 9 công. Bên vợ Bảy Ánh cũng nghèo. Vợ chồng Bảy Ánh nuôi cha mẹ già, 4 người con, cuộc sống rất khó khăn. Từ năm 1975-1990, gia đình Bảy Ánh luôn thiếu ăn mùa giáp hạt, Bảy Ánh phải đi làm đất mướn, vợ ông thì dệt chiếu mướn.

Năm 1995, dân Tân Thành đã biết nuôi cá bống tượng trong mương vườn, ao vườn, mặt nước ruộng tự nhiên hiệu quả, nhưng nuôi cá chình thì chưa. Bảy Ánh là người duy nhất ở xóm nuôi cá chình. Ông nghe theo lời tay lái cá giống, mang cá chình về nuôi trên đồng đất xứ mình, mà theo lời nhiều người lúc bấy giờ, không ai biết nuôi cá chình được hay không, quan trọng hơn, không ai biết đầu ra của cá chình như thế nào, thương lái có mua không, vợ chồng Bảy Ánh coi chừng bị tay lái cá giống dụ rồi!

Thật ra, vợ chồng Bảy Ánh lúc bấy giờ cũng mù mờ và liều mạng là chính. Bởi tay lái cá giống bống tượng cho dân Tân Thành chỉ hứa với vợ chồng Bảy Ánh rằng, ông cứ nuôi cá chình đi rồi tụi tôi mua! Nhưng ai cũng biết lời hứa đó mơ hồ như thế nào, vợ chồng Bảy Ánh cũng biết vậy, vì không có một cam kết gì chắc chắn từ tay lái cá, nhỡ nuôi tới chừng đó họ không mua thì làm gì được nhau, nên mọi người đều ngại.

Vợ chồng Bảy Ánh vượt qua được cái ngại này cũng xuất phát từ nghèo. Trước đó, năm 1991, Bảy Ánh theo dân Tân Thành nuôi cá bống tượng. Với dân có vốn, đầu tư nuôi cá bống tượng là chuyện bình thường, bởi lẽ thời điểm đó, cá giống bống tượng tự nhiên ở miệt trên mang xuống rẻ rề, cá mồi cho nuôi cá bống tượng lại tự kiếm được, người nuôi cá bống tượng không phải mua cá mồi, đầu tư nuôi cá bống tượng vốn không nhiều. Nhưng với một gia đình luôn thiếu ăn vào mùa giáp hạt như vợ chồng Bảy Ánh thì đây lại là một chuyện khác. Phải khó khăn lắm, ông mới nuôi được 2 ao cá bống tượng, diện tích nửa công đất. Nhờ nuôi 2 ao cá bống tượng, với diện tích nửa công đất, đến mùa giáp hạt, cái thiếu ăn trong gia đình Bảy Ánh đỡ hơn trước rất nhiều.

Ông Bảy Ánh hướng dẫn cách cho cá chình ăn. Ảnh: ÁI NHƯ

Đó cũng là động cơ thuyết phục vợ chồng Bảy Ánh đến với đối tượng nuôi mới là cá chình. Ông nghĩ, theo lời tay lái cá giống nói, cá chình khác với cá bống tượng. Nuôi cá bống tượng phải đúng trọng lượng theo yêu cầu của thương lái đặt ra mới có giá cá hạng nhất, không đủ trọng lượng, hoặc huốt trọng lượng, cá sẽ rớt giá xuống hạng nhì, tỷ lệ rủi ro cũng khá cao. Nuôi cá chình thì khác, cá càng có trọng lượng thì càng có giá trị, tỷ lệ rủi ro thấp, đó là điều kiện lý tưởng cho những người ít vốn nuôi như bỏ ống. Vợ chồng ông nghe phù hợp với điều kiện khó khăn của mình. Vậy là cũng với 2 ao nuôi cá bống tượng, diện tích nửa công đất, Bảy Ánh gom vốn liếng thả nuôi 400 con cá chình.

Năm 1997, tức là sau gần 2 năm nuôi, cá chình có trọng lượng từ 2-4 kg/con, tay lái cá giống đến coi và đồng ý mua. Cả vợ chồng Bảy Ánh và dân xóm không ngờ, 2 ao cá chình của vợ chồng Bảy Ánh bán được hơn 32 triệu đồng, tương đương gần 15 cây vàng vào thời điểm lúc bấy giờ. Vợ chồng Bảy Ánh cầm 32 triệu đồng trong tay mà vui muốn khóc, dân xóm cũng vui lây.

Sau vụ cá đó, Bảy Ánh mua thêm 8 công đất ruộng, nâng lên gia đình có 17 công đất, mục đích của ông là để mở mang sản xuất, có cái chia cho con cái sau này và chính thức bắt tay vào nuôi cá chình. Năm 1999, cũng với 2 ao nuôi cá chình và nuôi thêm cá chình, bống tượng trên mặt nước ruộng, vợ chồng Bảy Ánh lại trúng cá chình như lần đầu tiên, mua thêm 8 công đất ruộng, nâng tổng diện tích đất lên 25 công.

Năm 2001, vợ chồng Bảy Ánh lại tiếp tục trúng cá chình, lợi nhuận hơn 20 cây vàng, mua thêm 8 công đất ruộng, nâng tổng số lên 33 công. Mốc đáng nhớ của Bảy Ánh là năm 2003, ông phát triển lên được 12 ao nuôi cá chình, mỗi ao có diện tích từ 800-1.000 m2.

Cũng trong năm đó, ông thu hoạch cá chình đạt tới con số hơn 600 triệu đồng, được nhiều người biết đến, coi như “giáo sư” nuôi cá chình cũng kể từ đó.

Cá chình sống trong môi trường nước ngọt, nước lợ. Thời gian nuôi cá chình trong vòng 18 tháng, cá đạt trọng lượng từ 2 kg/con trở lên mới thu hoạch, nếu có điều kiện nuôi thêm vài tháng, cá đạt trọng lượng cao hơn thì càng có giá trị cao. Cá mồi cho cá chình rất dễ tìm, có thể là cá tạp, xứ Tân Thành cá phi có rất nhiều 10.000 đồng/kg. Thời gian cho cá chình ăn 2 ngày 1 lần, vào buổi chiều.

Thiết kế ao nuôi cá chình của Bảy Ánh cũng không phức tạp lắm, từ bờ trở ra 4 m, sâu 1,5 m, bao quanh hầm nuôi, còn lại toàn bộ diện tích là cồi cách mặt nước 4 tấc. Dân Đại học Nông nghiệp Cần Thơ còn coi Bảy Ánh như “giáo sư” nuôi cá chình bởi ông nghĩ ra được hai điều không có ở trường.

Khi thả cá chình, Bảy Ánh căng một miếng lưới trên mặt ao để đuổi còng cọc vô cùng hiệu quả. Rồi trong thời gian nuôi 18 tháng, Bảy Ánh chuyển chỗ ở cho cá trong ao hai lần. Đám cá chình trong ao khoái ở nhà mới hay sao không biết, con nào con nấy cứ mạnh như voi, lớn như thổi.

Từ năm 2005-2015, vợ chồng Bảy Ánh mua thêm 15 công đất ruộng, nâng tổng số lên 48 công, phát triển 33 hầm nuôi cá chình, mỗi hầm có diện tích từ 800-1.000 m2, thu nhập bình quân mỗi năm hơn 1,5 tỷ đồng. Ông được mệnh danh “tỷ phú cá chình” của xứ Tân Thành cũng từ đó. Riêng năm 2016, Bảy Ánh nuôi cá chình đạt tới con số thu nhập hơn 2 tỷ đồng. 9 tháng năm 2017, ông đạt con số gần 2 tỷ đồng, những con số đều "biết nói".

Giờ khi nhắc lại cái thời làm đất mướn, cái thời thiếu ăn vào mùa giáp hạt, vợ chồng Bảy Ánh cười rằng, làm sao quên được chứ. Đó cũng là lý do, cho đến bây giờ, Bảy Ánh vẫn giữ lại một ao nuôi cá bống tượng để làm kỷ niệm, chứ không phải làm kinh tế. Ao cá bống tượng như nhắc ông luôn nhớ cái thuở sơ khai, nhờ 2 ao cá bống tượng, vợ chồng ông mới qua được cái thiếu ăn mùa giáp hạt, nhờ 2 ao cá bống tượng, vợ chồng ông mới có được ít vốn nuôi 400 con cá chình đầu tiên và làm thay đổi cuộc đời vợ chồng ông như hôm nay.

Ao cá bống tượng kỷ niệm còn giúp ông luôn nhớ và không bao giờ quên quê hương. Từ đó, Bảy Ánh luôn sẵn lòng san sẻ với tất cả những ai muốn nuôi cá chình, muốn làm giàu từ con cá chình. Ông đã giúp rất nhiều nông dân khó khăn ở Tân Thành về kỹ thuật, cá giống, vốn để nuôi cá chình. Mong muốn lớn nhất của tỷ phú này là quê hương có nhiều tỷ phú…/.

Ái Như - Hồng Thía

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài cuối: Thầm lặng việc thiện nguyện

Gương mặt đôn hậu, nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi là điều dễ tạo thiện cảm với bất cứ ai khi gặp cô Phạm Thị Ngọc Thảo, giáo viên Trường Tiểu học Phường 6/2, TP Cà Mau. Nhiều năm duy trì “Tủ bánh mì yêu thương”, lặng thầm trao hàng trăm món quà thiết thực tới những hoàn cảnh kém may mắn, cô Thảo cảm nhận được niềm hạnh phúc khi được sẻ chia.

Tô thắm vườn hoa tử tế - Bài 2: Người gieo hạnh phúc

Mỗi ngày trôi qua, trên khắp quê hương Cà Mau xuất hiện nhiều tấm gương bình dị mà cao quý. Ðó là câu chuyện của người phụ nữ vượt qua nỗi đau của bản thân để dìu dắt những người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, là câu chuyện của những cựu chiến binh giàu nghĩa cử cao đẹp... Họ thầm lặng đóng góp cho đời, gieo hạt giống yêu thương, điểm tô cho cuộc sống thêm những gam màu tươi sáng.

Tô thắm vườn hoa tử tế

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nói, xã hội ta có rất nhiều những tấm gương người tốt, việc tốt. Họ có mặt khắp nơi, đó là những bông hoa đẹp trong rừng hoa đẹp. Ðiều đó được minh chứng ở Cà Mau, nơi tình đất - tình người bền chặt thuỷ chung, sâu nặng nghĩa tình. Trong hành trình phát triển quê hương, bằng những việc làm trượng nghĩa, người Cà Mau đã tô thắm thêm vườn hoa tử tế, làm lay động bao trái tim và lan toả giá trị sống tốt đẹp.

Cửa Lớn mở tương lai

Những năm 1990 của thế kỷ trước, mỗi dịp nghỉ hè, tôi lại được theo ghe bán hàng bông của ba má, xuôi ngược từ xứ ngọt Trần Văn Thời về đất mặn Ngọc Hiển xa xôi và lạ lẫm.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài cuối: Bàn về giải pháp

Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ người hoạt động ở ấp, khóm kế cận ở Cà Mau đầy sinh động, với nhiều cách làm hay, kinh nghiệm hữu ích. Bằng việc kết nối, đảm bảo tính kế thừa để phát huy tối đa những ưu điểm, bổ trợ những hạn chế giữa các thế hệ; đội ngũ này vừa ổn định vừa có những điểm sáng đột phá gắn với xu hướng trẻ hoá, chuẩn hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển khởi sắc của tỉnh nhà cũng đang tạo ra môi trường tốt để nhiều người trẻ chọn trở về gắn bó lập thân, lập nghiệp.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng - Bài 2: Những tín hiệu tích cực

Năng nổ, nhiệt huyết, nhạy bén và dám nghĩ, dám làm đang là những ghi nhận, đánh giá của các cấp uỷ đảng, chính quyền và Nhân dân khi nói về những người trẻ tuổi hoạt động ở ấp, khóm. Không khí tươi mới với nguồn năng lượng tích cực của đội ngũ trẻ đã thực sự trở thành điểm sáng ở nhiều địa bàn ấp, khóm ở Cà Mau trong hành trình phát triển. Ðó cũng là gợi ý hữu ích để Cà Mau tiếp tục công việc chuẩn hoá, trẻ hoá; tăng cường chất lượng và xây dựng đội ngũ kế thừa đảm đương nhiệm vụ ở khóm, ấp trong bối cảnh hiện nay.

Đội ngũ hoạt động ở ấp, khóm: Tựa tre, chăm măng

Thực tế đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở ấp, khóm trong việc cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống. Ðây là cánh tay nối dài của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp, sâu sát nhất với Nhân dân. Mọi chuyển động của cấp “cơ sở của cơ sở” sẽ quyết định đến việc thành hay bại của một quyết sách, một chủ trương, một phong trào... gắn với nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của từng địa phương.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài cuối: Hướng đến tín dụng "xanh"

Thông qua các khoản vay ưu đãi, nông dân và các hợp tác xã (HTX) có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, từ đó xây dựng nền tảng cho các mô hình kinh tế nông nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, tín dụng chính sách (TDCS) không chỉ giới hạn trong việc hỗ trợ sản xuất mà còn mở rộng sang các lĩnh vực quan trọng, như bảo vệ môi trường và phát triển tín dụng xanh.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững

Tín dụng chính sách xã hội (CSXH) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của các nhóm yếu thế và phát triển kinh tế địa phương. Các chính sách đổi mới đã giúp hàng ngàn người tiếp cận vốn hỗ trợ, vượt qua khó khăn và xây dựng sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, các hợp tác xã và mô hình nông nghiệp xanh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nỗ lực đổi mới trong quản lý và triển khai tín dụng đã phá vỡ rào cản, mở ra cánh cửa cho một tương lai phát triển toàn diện.

Tín dụng chính sách - Xây dựng niềm tin, hướng đến phát triển bền vững - Bài 2: Xoá rào cản, mở cửa cơ hội

Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tín dụng chính sách xã hội (CSXH) không chỉ là công cụ hỗ trợ người dân thoát nghèo mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế địa phương. Các khoản vay ưu đãi đã tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ khởi nghiệp, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững. Ðặc biệt, CSXH đã hỗ trợ những nhóm yếu thế và các cá nhân chấp hành xong án phạt tù vượt qua rào cản xã hội, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng và xây dựng cuộc sống mới. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài chính, tín dụng này đã trở thành nền tảng vững chắc để họ từng bước vươn lên, thay đổi cuộc sống.