Việt Nam có nhiều chủng loại sân khấu như: chèo, tuồng (hát bội), bài chòi, cải lương… Mỗi kịch chủng có một số thể điệu khác nhau mang đậm chất bi, hùng, hài, tự sự được thiết kế trong kịch bản. Nếu cải lương sở hữu một rừng âm nhạc nhiều vô kể thì các nghệ thuật khác chỉ có vài chục bản làm nền cho tác giả tùy nghi lồng ca từ cho hợp kịch huống. Và trong rừng nhạc cải lương, chỉ duy nhất bản vọng cổ là khó thể hiện nhất. Muốn ca hay vọng cổ phải có làn hơi trời ban, truyền cảm, lay động lòng người theo nội dung ca từ, cách sắp chữ hợp lý, thông minh; lại còn vững chắc bộ nhịp, mà song lang là con át chủ bài độc tôn sinh - sát để tôn vinh hay hủy diệt sinh mệnh nghề ca.
![]() |
| Đệ nhất danh ca vọng cổ Út Trà Ôn |
Ở lĩnh vực cải lương, đề cập đến danh hiệu Đệ nhất danh ca (ĐNDC) phải minh định 2 đối tượng: ĐNDC tài tử cải lương (nghĩa là ca giỏi các thể loại âm nhạc) và ĐNDC vọng cổ (có nghĩa ca xuất sắc bản vọng cổ bất kỳ bài nào). Thập niên 50 của thế kỷ 20, nhà báo Trần Tấn Quốc - người sáng lập Giải thưởng Thanh Tâm thường viết bài phê bình chương trình cổ nhạc của Đài Phát thanh Sài Gòn; và tôn vinh 2 nghệ sĩ Năm Bửu, Ngọc Ánh là nam - nữ ĐNDC cổ nhạc Nam phần, do thâm sâu học thuật, uyên bác các làn điệu, ca đúng hơi giọng đặc trưng của Nam, Bắc, Oán, Ngự…
NSND Út Trà Ôn đoạt danh hiệu ĐNDC vọng cổ qua cuộc bình chọn của khán thính giả và báo chí (do ông Trần Tấn Quốc chủ xướng) năm 1956, vài năm sau lại đoạt danh hiệu ĐNDC vọng cổ lần thứ II. Tính đến nay đã qua gần 60 năm, có biết bao cuộc bình bầu; và nam danh ca nào đó đoạt Khôi nguyên hoặc ĐNDC vọng cổ chứ chưa ai đủ chuẩn để lên “ngôi vua”. Riêng Út Trà Ôn ngần ấy năm vững vàng ngôi vị độc tôn hát vọng cổ hay nhất chưa ai vượt qua, đáng được khách tri âm và tín đồ “đạo hát” suy tôn hoàng đế! Điều này được công chúng “khẩu phục tâm đồng” sau khi các bộ đĩa ca độc chiếc (đơn ca) “Sầu vương biên ải”, “Tôn Tẩn giả điên” (cuối năm 1940) ra đời, đã ngay lập tức được công nhận. Từ buổi ấy, thành tích được nối tiếp bằng những thắng lợi lẫy lừng hơn, chói chang qua “Tình anh bán chiếu”, “Tình phụ tử”, “Đài hoa dâng Bác”, “Vua Trụ thiêu mình”, “Lửa rừng Miên Thượng”…
Qua cái đổ vỡ đoạn trường của ông giáo Hương (vở “Tuyệt tình ca”); cái hào khí bi tráng của lão nông Tám Khỏe (vở “Người ven đô”); cái mối hận thiên thu tan nát cơ đồ của Long Việt (vở “Tiếng trống sang canh”); mối oan nghiệt tình thù của hào kiệt Kiều Phong (vở “Kiều Phong - A Tử”)… đã được ông hòa nhập nhuần nhuyễn cao độ lời ca vào nét diễn. Bằng giọng đồng tuyệt hảo cao vút (dây hò 6), âm vực rộng, đậm đầy sĩ khí phương Nam, chân phương của dân miền Tây thẳng thắn, bộc trực, hồn hậu… Những tố chất ấy nào phải dễ tìm?
Từ những năm 1940, tài ca của Út Trà Ôn là tấm gương cho các ca sĩ cùng thời soi rọi, phấn đấu để không lạc hậu. Ông hơn họ, đã đành, về làn hơi thiên phú; nhưng để cự ly cao thấp không quá xa, họ phải nỗ lực tu bồi, rèn luyện hơi và kỹ thuật cao. Đối với các thế hệ sau, ông đương nhiên vẫn là chuẩn mực, là cái thang điểm cho họ khổ luyện. Sự phấn đấu rộn ràng của nhiều thế hệ liên tục nửa thế kỷ qua đã bật lên nhiều nguyên cớ và mục tiêu: Khao khát được sánh vai; bảo đảm lâu dài sinh mệnh nghề nghiệp (tiền, tài, danh vọng), ghi dấu ấn bền vững trong tâm thức công chúng. Để rồi ta có thể tạm kết: một thế hệ vàng vọng cổ như một dòng chảy mạnh được khai thông nửa thế kỷ nay và đang tồn tại. Có thể nói một vương triều vọng cổ với đông đủ bá quan (danh ca) đa bản sắc, đa cấp bậc phẩm trật (cự ly cách biệt tài năng); mà ngự trên ngai là vua vọng cổ Út Trà Ôn. Đó là huyền thoại có thực, không hư ảo.
Hồ Quang (nhà báo kịch trường)

Truyền hình









Xem thêm bình luận