(CMO) Lúc còn nhỏ tôi đã dám một mình ngồi trên chiếc tàu tốc hành vượt hàng trăm cây số về quê thăm ngoại.
Nhà ngoại quay mặt ra con sông Hiệp Hoà nhỏ nhắn thông ra Rạch Lùm, Kinh Hãng, Trùm Thuật… và hoà vào dòng sông Ông Đốc rộng mênh mông. Nhà tôi bên bờ kênh Cựa Gà, xã Khánh Tiến (U Minh) cách nhà ngoại (xã Khánh Hưng, Trần Văn Thời) chỉ vài chục cây số, bây giờ nếu đi xe gắn máy cũng chỉ khoảng 1 giờ là tới nơi. Hồi trước thì khác, chưa có lộ giao thông, đi tàu tốc hành vừa chậm, vừa vòng vo nên quãng đường thêm xa hơn. Từ ngã tư Rạch Vinh, tôi ngồi tàu tốc hành xuôi dòng kênh Lòng Ống ra con sông Cái Tàu rộng lớn đi qua các xã Nguyễn Phích, Khánh An, Hồ Thị Kỷ… để tới Bến tàu A, từ đây tôi tiếp tục đón đò đi Hiệp Hoà, nghĩa là phải mất 2 chuyến tàu mới về tới nhà ngoại. Vì vậy, cuộc hành trình về thăm ngoại của một thằng nhóc như tôi mất cả ngày trời.
Nhà ngoại có cây rơm cao ngất bên hiên, có đống trấu to đùng phía sau nhà bếp. Những lúc về thăm ngoại thường vào dịp nghỉ hè, nghỉ Tết nên trùng thời điểm thu hoạch lúa, không khí thật vui tươi, rộn ràng. Đám con nít hồn nhiên chẳng bận suy tư ngồi nhìn chiếc máy tuốt lúa ì ạch nhả khói, phun rơm. Lớn lên, nhìn đôi bàn tay chai sạm của ông bà, cha mẹ mới biết quý chén cơm đang cầm trên tay. Ở vùng ngọt hoá này, cây lúa có giá trị đúng nghĩa với người nông dân từ hạt gạo, hạt cám, cọng rơm… đến cả vỏ trấu.
Lần nào cũng vậy, hễ đến ngày đi chà gạo là ngoại đòi theo, đám con cháu khuyên ngăn: “Thôi, ngoại già rồi, sức yếu, để tụi con đi cho!”. Ngoại gõ lên đầu từng đứa: “Tụi bây được cái nhanh lẹ nhưng không chu đáo, ngoại có đi mới yên tâm!”. Vậy là ngoại đội nón lá ngồi phía trước mũi chiếc xuồng be mười kèm; tôi thì ngồi trên những bao lúa căng đầy; anh Tư (con của cậu) điều khiển chiếc máy Cô-le Tư, ổng còn thủ sẵn cặp chèo phòng khi cái máy Cô-le giở chứng. Tới nơi, ngoại cẩn thận dặn dò ông thợ nhà máy xay xát theo dõi cho thật kỹ để thóc không lẫn gạo, cám phải thật mịn… Rồi ngoại chu đáo hứng từng bao gạo, xoè bàn tay kiểm tra từng vốc gạo trắng ngần. Ngoại đưa cho tôi mớ bao và biểu ra phía hông nhà máy hứng vỏ trấu. Nghe lời ngoại, tôi đưa miệng bao vào ống xả trấu của nhà máy, chẳng mấy chốc cả chục bao trấu no tròn, tôi cẩn thận buộc chặt bằng mấy cọng dây lạc dừa. Vác bao trấu nhẹ hều trên vai xuống xuồng, tôi thích thú khi được ngoại khen: “Cái thằng nhỏ xíu vậy mà mạnh dữ”.
Có một thời, ngoại nuôi vịt bằng chuối cây, vỏ trấu. |
Lúc còn nhỏ không để ý, cứ ngỡ vỏ trấu chẳng có giá trị, nhưng tôi đã lầm, vỏ trấu đã đồng hành và mang lại nhiều lợi ích cho người nông dân từ thuở mở đất đến tận bây giờ. Trên giàn bếp nhà ngoại có tới 5 cái lò, trong đó 3 lò củi và 2 lò trấu. Ngoại nói, lò trấu cháy thật đầm, lửa bền hơn lò củi, ít khói nên soong, nồi, chảo… đỡ dính lọ nghẹ. Mà nếu có dính lọ nghẹ vào soong, nồi… thì mấy dì, mấy chế cũng dùng chính vỏ trấu để chùi, rửa. Bên sàn lãn, trên mặt sông dập dìu vỏ trấu dính đầy lọ nghẹ, đổi lại là những cái nồi, cái chảo sáng bóng, sạch trơn. Theo kinh nghiệm của nhiều người, lò trấu nấu cơm ngon không thua lò than đước bên Ngọc Hiển, nhưng đòi hỏi người nấu phải thạo canh lò, ban than trấu cho đều sau khi chắt nước cơm xong.
Vỏ trấu và tro trấu dùng làm phân hữu cơ bón cho cây trồng, rau màu thì tốt tuyệt vời. Ngày xưa, những liếp rau diếp cá, húng lủi, bẹ xanh, dưa leo… ngoại trồng chỉ duy nhất dùng phân rơm và vỏ trấu. Vậy mà rau xanh từng luống, trái trĩu từng giàn, vị ngọt tự nhiên. Tôi nhớ có lần cha nói, dùng tro trấu mà bón cho cây ớt hiểm thì trái sẽ cay hơn. Nghĩ cũng lạ: “Ớt nào mà ớt chẳng cay?”. Song, không tự dưng mà cha tôi nói vậy, có lẽ kinh nghiệm của một người từng trồng ớt, ăn ớt đã cho cha đúc kết như vậy!
Nhà ngoại lúc nào cũng nuôi hàng trăm con vịt, con gà để vừa tạo nguồn thu nhập, vừa làm tiệc cúng giỗ ông bà, hay ăn Tết. Vậy là, ngoại xắt chuối cây, trộn cám, lúa lép cùng vỏ trấu làm thức ăn chăn nuôi. Những con vịt xiêm nặng vài ký lô, mập tròn được xuất bầy mang về mớ tiền được ngoại xếp kỹ trong bọc ni-lông, kẹp lại bằng cái kim tây nhỏ xíu… cũng nhờ đống vỏ trấu ấy.
Vỏ trấu còn ôm chầm, bao bọc trứng vịt, trứng gà hàng tháng trời ủ trong đất, trong bồ lúa… để cho ra món trứng muối ngon tuyệt ăn với cháo trắng, hoặc làm nhân cho nhiều loại bánh. Và còn nhiều, rất nhiều hữu ích mang lại từ những chiếc vỏ trấu mỏng tanh. Song, một kỷ niệm tôi không thể nào quên, đó là lúc ngoại từ giã cõi đời để đi gặp ông ngoại vào tháng Bảy mưa dầm. Trên sân đất rộng, sình đặc quánh, không kê được bàn ghế, anh em chúng tôi chạy ra phía sau nhà bếp bưng từng thúng, từng thúng trấu rải đầy lên mặt sân, vậy là sình khô lại…
Bây giờ, mỗi lần về quê giỗ ngoại trong lòng miên man nhiều nỗi nhớ. Cũng căn nhà năm xưa nhưng bên hiên không còn cây rơm cao vút, phía sau nhà bếp không còn đống trấu to đùng. Những luống rau vẫn xanh tươi nhưng không phải bón bằng phân rơm, phân trấu. Trên gian bếp còn sót lại 1 cái lò trấu nguội lạnh do nhiều năm không sử dụng, mấy cái lò củi được thay bằng bếp gas đời mới. Con sông Hiệp Hoà, những chiếc phà chở máy xay xát lúa di động cập vào mé bờ ì ạch nhả khói, phun trấu trắng cả khúc sông. Tôi nhớ hình ảnh ngoại cặm cụi bón từng vốc trấu vào luống rau màu, ngồi xắt chuối cây trộn trấu cho bầy vịt đang đói, hay ngồi canh nồi thịt heo kho tàu bên cái lò trấu… Có lẽ thời gian đã làm nét sinh hoạt ở vùng quê này nhiều đổi thay. Song, trên tất cả cây lúa, hạt gạo, cọng rơm, vỏ trấu vẫn vậy, luôn thuỷ chung và mang trong mình những giá trị vốn có./.
Đỗ Chí Công