ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 24-11-24 03:14:53
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

“Tiểu đoàn Rắn Hổ”

Báo Cà Mau (CMO) Chuyện sản vật rừng U Minh trong kháng chiến “dữ dội”, tôi đã được nghe kể. Sau giải phóng, vào những năm 1980, trữ lượng này vẫn còn rất lớn. Qua lời kể của các cựu thanh niên xung phong (TNXP) khôi phục rừng U Minh Hạ về sự phong phú của rắn, rùa, chim, cá nơi đây, thêm một lần nữa gật gù: vậy là bác Ba Phi đâu có… nói dóc.

Mùa khô năm 1983, xảy ra trận cháy rừng lịch sử, gần 50.000 ha rừng tràm U Minh Hạ bị thiêu rụi, trong đó có khoảng 25.000 ha rừng đặc dụng. Sau khi lửa rừng được dập tắt, Tỉnh đoàn Minh Hải (Cà Mau, Bạc Liêu ngày nay) thành lập Trung đoàn TNXP tận thu lâm sản và trồng lại diện tích rừng bị thiệt hại, với khẩu hiệu “Tuổi trẻ Minh Hải phủ lại màu xanh U Minh”; trong đó, mỗi huyện tham gia 1 tiểu đoàn.

Tiểu đoàn TNXP huyện Cái Nước do ông Châu Nam Thắng làm Chính trị viên, ông Nguyễn Tiến Lên (Chín Lên) làm Tiểu đoàn trưởng, ông Nguyễn Thanh Tần (Hai Tần) làm Tiểu đoàn phó, đóng quân ở Tuyến 21.

Ấn tượng mà đơn vị không thể quên được trong những ngày làm nhiệm vụ tại rừng U Minh, dù cách nay gần 40 năm, đó là rắn. Ông Chín Lên (hiện ngụ Phường 9, TP Cà Mau) kể: Từ huyện Cái Nước, đoàn đi tàu đò ra Cà Mau, rồi từ Cà Mau đi tàu đò vô Co Xáng (nơi ở của Trung đoàn TNXP), lội bộ thêm 4 cây số đến Tuyến 21. Lúc đó khoảng tháng 6/1983, mưa tầm tã, tới nơi trời đã tối, lực lượng gần 100 người được bố trí nghỉ tạm nhà dân dọc bờ xáng.

U Minh Hạ mùa ong mật. Ảnh: THANH DŨNG

Ðêm đó, thỉnh thoảng lại nghe tiếng la hét loáng thoáng từ xa; hỏi ra mới biết, các nhà này bị rắn bò vào, thậm chí chúng trèo cả lên giường. Do rừng cháy, rắn tràn ra ngoài ruộng ẩn nấp trong năn, cỏ, lùm, bụi…; bị mưa ngập, chúng di chuyển tìm chỗ cao ráo tránh trú. Mà khi đó dân còn nghèo, nhà lá, vách lá, giường ngủ lót vạc bằng cây cau chẻ ra hoặc những cây tràm suôn, chân giường cặm tạm bằng cây tràm cặp vách, rắn rất dễ bò lên.

Sáng dậy, nước ngập mênh mông, nhìn ra mấy cây tràm ngoài ruộng, ông Chín Lên ngỡ ngàng không tin nổi vào mắt mình: rắn lớn, rắn nhỏ đeo lùm đùm trên ngọn.

Ðơn vị bắt đầu lội đi khảo sát nơi cất lán trại. Trên đường đi, ở các lùm cây, đám sậy cháy loang lổ hầu như nơi nào cũng bắt gặp rắn. Ban đầu thấy lạ, mọi người còn lấy cây đập, nhưng sau cứ gặp hoài nên mặc kệ, vì phải tập trung cho công việc.

Ðịa điểm chọn cất lán trại là một đìa lạng ở bìa rừng, hai bên bờ còn sót lại mấy đám tràm, có thể che bớt mưa gió (vì rừng cháy rụi, cây đứt gãy, mênh mông là đồng trống). Ðể tránh ngập và rắn bò vào, đơn vị làm nhà sàn dưới mé nước. Trong lúc làm, cứ thỉnh thoảng thấy rắn lội vào bờ đìa. Cất xong lán trại, mọi người đập được cả thảy 7 con rắn hổ đất, khoảng hơn 10 kg, đem về nấu cháo đậu xanh bồi dưỡng cho anh em sau một ngày làm việc cực nhọc.

Cũng tại 2 bờ đìa này (độ gần 1 công đất, tràm sậy cháy lam nham, đất có nhiều phân xốp), mỗi lần dân vào bắt rắn, được từ năm con đến mười mấy con. Những lúc có khách đột xuất, hay không có đồ ăn, ông Chín Lên cũng ra đó bắt rắn. "Trong gần 1 năm làm nhiệm vụ, ở cụm này, chúng tôi và người dân bắt tổng cộng chắc có mấy trăm con rắn”, ông Chín Lên nhẩm tính. Rắn ở U Minh lúc đó đủ loại: hổ đất, hổ mang, mai gầm, hổ hành…, đa số con từ 1 kg trở lên, nhiều nhất là hổ đất. Cũng có rất nhiều trăn, nưa.

Ông Nguyễn Minh Chánh, nguyên Tổng biên tập báo Minh Hải (lúc đó là Phó bí thư Tỉnh đoàn) kể, có lần ông đi học Trường Nguyễn Ái Quốc về, xuống lán trại thăm anh em. Ðang đi vệ sinh trên bờ đìa, mọi người la lên “coi chừng rắn”; liền đó, ông Ba Liêm (Trần Thanh Liêm, Trung đoàn trưởng TNXP) xách cây chĩa ra xôm chỗ ông đứng, dính ngay con rắn hổ đất hơn ký lô. Chuyện này hay được mọi người kể nhau nghe và trêu là ông mạng lớn.

Hồi đó, đơn vị “bình bầu” ông Chín Lên là người “sát rắn” (giỏi bắt rắn). Rắn trong đám sậy cháy, trong bụi lùm, ẩn nấp dưới lớp phân, dớn…, bằng con mắt tinh tường, sự dạn dĩ, có chút kiến thức bắt rắn hồi còn ở quê, cộng với học hỏi thêm và tài nghệ riêng, mỗi khi ông cầm chĩa đi, chỉ 15-20 phút sau về là thấp gì cũng 4-5 con rắn.

Có một câu chuyện về bắt rắn mà ông Chín Lên bảo rằng “kỷ niệm lịch sử”: “Lần đó Trung đoàn tổ chức hội nghị, có tính kế hoạch đi bắt rắn về nấu cháo đãi anh em. Tôi, anh Ba Liêm, chú Ba Ghép, Lê Bé… đi theo mấy mô đất bắt được 7 con rắn. Trên đường đi, thấy mấy ông nông dân quảy 2 bao giạ rưỡi đi ì ạch, mở ra toàn rắn hổ. Họ chỉ chúng tôi chỗ bắt. Ðó là một bờ sậy lạng, chen lẫn tràm, cháy không hết, bề ngang bằng cái nhà, dài mười mấy thước, dây giác bò um tùm. Chúng tôi hì hục bắt chỗ đó được 19 con. Có chĩa đâm xuống lớp dớn dính tới 2 con. Ðập chết con đầu rồi mà vẫn còn nghe khù khù bên dưới, vạch ra mới phát hiện còn thêm 1 con nữa. Có chĩa trúng rắn hổ mang, nó khù rền vang... Cả thảy lần đó bắt được 26 con, gần 50 kg, đổ ra một đống, bằng mấy giạ lúa”.

Cũng từ lần bắt rắn này, nhiều người dự hội nghị biết và đặt Tiểu đoàn TNXP Cái Nước thành danh “Tiểu đoàn Rắn Hổ”.

Rắn nhiều vậy, tôi hỏi có ai bị rắn cắn không, ông Chín Lên cho biết, rất may mắn là đơn vị chỉ 1 người bị rắn lục cắn thối đầu móng tay. Còn những con rắn bắt được, chủ yếu dùng chĩa cán dài xôm, rồi đập đầu ngay cho chết mới đem về.

Một góc vườn Quốc gia U Minh Hạ. Ảnh: THANH DŨNG

Không chỉ có rắn, xứ U Minh thời ấy cá, rùa, chim cũng còn nhiều vô kể. Trong đơn vị, nếu ông Chín Lên giỏi bắt rắn, thì ông Hai Tần lại có biệt tài bắt rùa, bắt cá. “Tôi mua giao anh Hai Tần mười mấy cái lọp, ông đặt 3 ngày đổ 1 lần. Mỗi lần đổ, 1 lọp dính 7-8 con rùa, có cái cả chục, mười mấy con; chở về, nó bò ngổn ngang gần đầy xuồng be tám. Ðủ loại: càng đước, rùa vàng, rùa nắp, rùa hôi, rùa quạ, rùa sen, mỗi con ký mấy; càng đước thì 5-7 kg. Càng đước giăng câu dính nhiều hơn. Ngoài rùa còn có rắn ri tượng, ri cá cũng dính lọp”, ông Chín kể trong hào hứng.

Ông Châu Nam Thắng (hiện sống xã Khánh Thuận, huyện U Minh) bảo, hồi đó ông Hai Tần có “bí quyết” đặt lọp bắt rùa sau này mới “bật mí”. Ðó là tìm mua da trâu về, nướng khét, cứ mỗi cái lọp ông cột vào 1 miếng. Khi đặt, quay miệng lọp hướng dưới gió, vậy là rùa đánh hơi cứ kéo nhau bò vào.

Cá thì không biết ông Hai Tần có “chiêu” gì không, nhưng chỉ 20 giềng câu (mỗi giềng 2 lưỡi), đêm nào cũng mười mấy, hai mươi ký cá trê, lóc. Mùa nước cạn, ông Hai Tần chặn xuồng ngang con kênh là tới sáng cá nhảy vô cả nửa xuồng (lóc, rô, trê, bổi, dầy… đủ loại. Cá lóc con bự tới vài ký).

Ông Chín Lên còn nghe kể lại, hồi đó khu vực này có đìa người dân thu hoạch tới 6 tấn cá, phải bắt mấy ngày đêm. Tát lên, cá nằm dưới đáy cả thước.

Các ông giải thích, sở dĩ có nhiều cá là do chỗ đó gần Lung Nổi và lung Ngọc Hoàng, nơi được mệnh danh là vựa cá U Minh (đáng tiếc là lung Ngọc Hoàng giờ bị người dân bồi lấp sản xuất, chỉ còn duy nhất một đoạn nằm trong phần đất ông Mười Ngọt được gia đình bảo tồn, giờ làm du lịch).

"Chim rừng U Minh khi đó những con lớn có gà đãy, khoang cổ, giang sen. Khoang cổ, giang sen thì cỡ 3-5 kg, còn gà đãy nặng tới mười mấy ký. Ðặc điểm của gà đãy là làm tổ trên cây mốp, khi đó cháy rừng còn sót lại mười mấy cây. Gà đãy cao, nếu ngóng cổ lên là thước mấy, nó có cái đãy ở cổ, ăn lần 2-3 kg cá. Trứng lớn hơn trứng ngỗng…”. Ngồi nghe ông Chín Lên kể mà tôi chỉ biết tròn mắt trầm trồ và mường tượng. Vì lớp hậu bối như chúng tôi, giờ làm gì còn con gà đãy nào mà biết hình thù.

“Hồi đó khổ lắm, ở trong đó vừa buồn vừa khó khăn, thiếu thốn đủ bề. Thêm nạn muỗi, ban đêm nó nghe hơi người là bu lại có khi không còn thấy cái mùng. Rắn, cá, rùa bắt được thì cũng chỉ kho, xào, luộc, nướng… ăn cho qua bữa, còn tập trung làm nhiệm vụ”, ông Chín Lên hoài niệm.

Nhờ sản vật của rừng đã giúp các đơn vị cải thiện được bữa ăn, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ vô cùng trọng đại và ý nghĩa. Ðể rồi nhiều năm sau, màu xanh của rừng tràm lại được che phủ, hình thành Vườn Quốc gia U Minh Hạ; đặc biệt giờ đây trở thành Khu Dự trữ sinh quyển thế giới. Chỉ tiếc một điều, nguồn tài nguyên thiên nhiên và sản vật "nhiều vô kể" của rừng như ngày nào giờ chỉ còn trong huyền thoại./.

 

Huyền Anh

 

Những "ngôi nhà cách mạng"

Thời chiến tranh chống giặc ngoại xâm, Cà Mau là căn cứ địa đặc biệt quan trọng đối với phong trào cách mạng cả nước. Từ thành thị đến làng rừng có rất nhiều địa điểm ghi dấu ấn, nay là di tích lịch sử cách mạng.

Chuyện xin giống cây vú sữa trồng ở Phủ thờ Bác

Tại Phủ thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, xã Trí Lực, huyện Thới Bình (mọi người thường gọi thân thương là “Phủ thờ Bác xã Trí Lực”), hiện có cây vú sữa được nhân giống từ cây vú sữa của má Lê Thị Sảnh (Ấp 10, xã Trí Phải, huyện Thới Bình) gửi Tiểu đoàn 307 mang ra miền Bắc tặng Bác Hồ trên chuyến tàu tập kết năm 1954. Cây vú sữa này cũng đã cho trái từ mấy chục năm qua, khắc sâu thêm tình cảm thiêng liêng của người dân Cà Mau đối với Bác. Thế nhưng, chuyện xin cây vú sữa mang về trồng như thế nào và từ khi nào, cũng là thắc mắc của nhiều người.

Vụ thảm sát Cái Sắn qua lời kể của nhân chứng U100

Ông Phạm Văn Quang (Hai Quang), Chủ tịch Hội Khuyến học huyện Thới Bình, là người tâm huyết với công tác khuyến học, hầu như khóm, ấp nào trong huyện cũng có bước chân ông. Một hôm, ông phấn khởi điện cho tôi: “Chú biết có ông cụ này tuổi hơn 90, còn minh mẫn lắm, biết rất nhiều chuyện xưa của vùng đất Thới Bình, trong đó có vụ thảm sát ở Cái Sắn. Sắp xếp rồi chú đưa đi gặp cụ”.

Việt Nam trân trọng độc lập, phát triển bền vững

Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước quốc dân, đồng bào và toàn thế giới ngày 2/9/1945 đã khẳng định Việt Nam là một quốc gia tự do, độc lập. Ở đó người dân có quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc… Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…

Tự hào 79 mùa thu lịch sử

Cách đây 79 năm, với thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Ðộc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, ngày 2/9/1945 trở thành ngày Tết độc lập đầu tiên của Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh - thời đại của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước với ánh sáng chân lý của sự nghiệp cách mạng mà Bác Hồ và Ðảng ta soi đường, dẫn lối. Một mùa thu vạch ngang lịch sử, được lịch sử lựa chọn để đi vào bất tử.

Tri ân hai vị lãnh đạo nghĩa quân

Những ngày tháng Tám lịch sử, chúng tôi có dịp tháp tùng cùng Nhà báo Ðỗ Văn Nghiệp (Sáu Sơn), hiện là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Kể chuyện lịch sử (do Bảo tàng tỉnh thành lập) về thăm, thắp hương tại Khu tưởng niệm hai lãnh đạo nghĩa quân, Ðỗ Thừa Luông - Ðỗ Thừa Tự (toạ lạc tại ấp Bùng Binh, xã Hoà Thành, TP Cà Mau) - Di tích lịch sử cấp tỉnh.

Món quà nghĩa tình tri ân mẹ

Thiêng liêng gì bằng Tổ quốc và mẹ. Mẹ đã cống hiến tuổi xuân, tài sản lớn nhất là chồng, là con cho Tổ quốc. Bằng tấm lòng tôn kính, cảm phục, việc xuất bản quyển kỷ yếu "Bà mẹ Việt Nam anh hùng tỉnh Cà Mau” thể hiện trách nhiệm và là món quà mang nặng nghĩa tình của Ðảng bộ và Nhân dân tỉnh Cà Mau gửi đến các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) còn sống, thay nén tâm hương dâng lên những mẹ đã khuất.

Chuyện về liệt sĩ nằm lại vùng đất lửa

Cách đây 5 năm, trong chuyến về nguồn cùng Tỉnh đoàn Cà Mau, đó là lần thứ 3 tôi được đặt chân đến Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn (tỉnh Quảng Trị). Mang theo tấm lòng của người con miền Nam đến thắp nén tâm hương cho những vị anh hùng của Tổ quốc, như một sự tình cờ kỳ diệu, giữa hơn 10 ngàn ngôi mộ liệt sĩ nằm lại ở vùng đất lửa, đoàn chúng tôi bất ngờ tìm được một phần mộ đặc biệt. Ðó chính là nơi an nghỉ của Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Xinh, quê tại xã Tân Lộc, huyện Thới Bình.

Những địa chỉ thiêng liêng

Trong 2 cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, lớp lớp những người con Cà Mau lên đường đánh giặc, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Ðể đổi lấy ngày độc lập, chỉ trên quê hương Cà Mau đã có 17.678 liệt sĩ, 16.467 thương binh, 2.510 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gần 17 ngàn người đang hưởng trợ cấp hằng tháng.

Làm đẹp địa chỉ đỏ

Trải qua hai cuộc chiến tranh ác liệt, xương máu của lớp lớp thế hệ ông cha đã thấm đẫm trên từng tấc đất quê hương. Ðể tưởng nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ, tại các xã, thị trấn trong huyện Ngọc Hiển đều xây dựng các đài tưởng niệm, nhà bia ghi danh liệt sĩ. Những công trình này vừa thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, vừa góp phần giáo dục truyền thống cách mạng vẻ vang của dân tộc cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.