ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 14-8-25 01:11:43
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Đội Du kích tí hon Hàm Rồng

Báo Cà Mau (CMO) “Tuổi nhỏ mà thành lập hẳn đội du kích để đánh giặc thì hình như trong cả nước mình chỉ có 2: Ngoài Bắc trong kháng chiến chống Pháp có Đội Du kích Đình Bảng, ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước có Đội Du kích Tí Hon Hàm Rồng”, ông Trần Thanh Liêm (Ba Liêm), nguyên cán bộ phụ trách công tác thiếu nhi Tỉnh đoàn Cà Mau, nguyên Phó Chủ tịch Uỷ ban MTTQ Việt Nam tỉnh Cà Mau, nhận xét.

Xác tàu chiến Mỹ còn nằm rải rác nhiều nơi trong tỉnh.     Ảnh tư liệu

“Giặc đến ngõ, trẻ nhỏ không tha”

Trong giai đoạn 1960-1975, nhất là từ năm 1968-1970 là giai đoạn ác liệt nhất. Ấp Hàm Rồng (xã Năm Căn, huyện Duyên Hải, nay là huyện Năm Căn) là trọng điểm càn quét, đánh phá ác liệt của Mỹ - nguỵ. Ấp Hàm Rồng khi ấy có 3 xóm: Hàm Rồng trong, Hàm Rồng ngoài và kinh Tư Là. Địa bàn của 3 xóm này cách căn cứ hải quân Năm Căn và đồn Cái Keo nơi gần nhất chỉ vài cây số. Từ các cứ điểm này, địch hành quân vào Hàm Rồng như cơm bữa. Chúng đốt phá nhà cửa, bắn giết đồng bào ta vô tội vạ. Tiếng bom đạn không sao kể xiết. Xóm làng, nhà cửa điêu tàn, ruộng rẫy xác xơ, cây rừng trơ trọi, đất đai loang lổ.

Trong khu vực Đồng Ong Nghệ (ấp Hàm Rồng) lúc bấy giờ chỉ còn 36 hộ dân, họ che chòi ở tạm. Mặc dù bị địch bao vây phong toả hết sức ngặt nghèo, nhưng bà con luôn ngày đêm sát cánh với cán bộ, đảng viên bám đất, bám rừng. 

Trong hoàn cảnh ác liệt đó, Đội Du kích tí hon ấp Hàm Rồng được thành lập (gọi là Đội Du kích tí hon Hàm Rồng). Các đội viên thiếu niên tiền phong ở tuổi 15, 16 vì lòng căm thù giặc sâu sắc mà tự nguyện tham gia đội du kích để cầm súng đánh giặc thù giày xéo quê hương.    

Ông Trần Thanh Liêm sau Mậu Thân năm 1968 là cán bộ của Xã đoàn Năm Căn, nói về sự ra đời của Đội: “Sau Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu thân 1968, mình tổn hao sinh lực rất nhiều, lực lượng du kích xã được rút lên bổ sung địa phương quân, lực lượng du kích ấp bổ sung du kích xã. Vì vậy, ấp, xã thiếu lực lượng chiến đấu trầm trọng. Trước tình hình trên, những đội viên Đội Thiếu niên tiền phong ở các phân đội ấp Hàm Rồng đã từng theo du kích đánh giặc được chọn ra một số đội viên thành lập đội du kích, lúc đông nhất khoảng hơn 20 người. Những đội viên khi trưởng thành, tham gia vào các lực lượng khác thì các em nhỏ tấn lên tiếp tục tham gia vào đội. Thấy đội viên du kích còn nhỏ tuổi, mấy chú cưng nên gọi là “du kích tí hon””.

Các đội viên Đội Du kích tí hon Hàm Rồng (gọi tắt là Đội) lúc mới thành lập gồm: Huỳnh Hoàng Vân, Trần Nam Việt, Trần Thanh Bình, Trần Minh Châu, Nguyễn Hoàng Na, Trương Hoàng Nam, Võ Tấn Lực, Võ Tấn Lượng, Trần Ngọc Cự, Quang Văn Thảnh, Phan Văn Toã, do Nguyễn Thanh Hồng làm Đội trưởng. Đồng chí Quang Ngọc Bang (Tư Tôn) làm Chính trị viên ấp đội.

Cũng theo ông Trần Thanh Liêm, phần đông các em là con cháu của gia đình cán bộ và quần chúng chí cốt có truyền thống cách mạng. Trước đó, dù còn ở tuổi 9, 10 các em đã phải tham gia làm ruộng, làm rẫy hết sức cực nhọc cùng gia đình. Bên cạnh đó, các em còn len lỏi trong rừng bắt vọp, mò cá, câu cua... để lo bữa ăn trong nhà và những buổi họp đông người của các chú, các anh.

Song song đó, các em còn tích cực vót chông, gài trái, xây dựng ấp, xóm chiến đấu cùng người lớn. Nhiều em còn được giao nhiệm vụ đem cơm ăn, nước uống, chuyển thư từ cho các chú, các bác hoạt động bí mật trong rừng đang bị sự càn quét, bắt bớ gắt gao của giặc. Các em còn có nhiệm vụ khi giặc hành quân vào xóm, ấp thì kéo chà ngăn ngang đường làm chướng ngại vật; đồng thời nắm tin tức, số lượng, hướng đi và nghe ngóng nắm thông tin bọn chúng bàn tán, trao đổi, báo cáo cho các chú, các anh biết để chủ động đối phó kịp thời.

Hầu hết các em là đội viên, từ phong trào "Tuổi nhỏ làm việc nhỏ" được anh chị Đoàn Thanh niên trực tiếp lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện nên khá bản lĩnh, rất gan dạ, mưu trí, dũng cảm. Cũng vì thế, khi tham gia vào Đội, các em trưởng thành nhanh chóng và lập được nhiều thành tích xuất sắc.

Chiến công nối tiếp chiến công

Trận đầu tiên của Đội là đánh chặn 1 đại đội bảo an từ Cả Nẩy hành quân vô ấp Hàm Rồng vào đầu năm 1969. Biết được kế hoạch hành quân của giặc, các đội viên chia ra thành 2 tổ chiến đấu. Toán đầu tiên lọt vào trận địa, 2 tổ đồng loạt nổ súng. Bị đánh bất ngờ, bọn chúng phải chựng lại, co cụm, gọi pháo binh từ cứ điểm Năm Căn, Cả Nẩy bắn yểm trợ. Sau loạt đạn pháo binh bắn phá yểm trợ, đại đội bảo an hành quân tiếp. Nhưng chúng bị các đội viên bắn tỉa đành phải cụm quân lại.

Nhờ cách bố trí phục kích, bắn tỉa dựa vào địa hình rừng đước, kinh rạch, bờ rẫy mà các đội viên cầm cự chiến đấu nhiều giờ liền với bọn địch. Cuối cùng, bọn chúng buộc phải rút quân.

Chiến công đầu tiên của Đội là bẻ gãy cuộc hành quân của đại đội bảo an, góp phần tích cực bảo vệ an toàn vùng căn cứ cách mạng, bảo vệ tính mạng và tài sản nhân dân. Các đội viên được các chú, các anh hết sức khen ngợi và tin tưởng.

Trong lúc quân dân Năm Căn ra sức đánh bại âm mưu bình định của địch thì ai cũng vô cùng đau đớn nghe tin Bác Hồ kính yêu qua đời. Tất cả mọi người từ già đến trẻ, từ gái đến trai, từ cán bộ, bộ đội đến mỗi người dân đều cố nén đau thương vào lòng và cùng nhau thề “biến đau thương thành sức mạnh”, ra sức sản xuất, chiến đấu và công tác, quyết lập công để đền đáp công ơn trời biển của Bác Hồ kính yêu. Đầu năm 1970, Đảng bộ và Nhân dân cùng nhau tổ chức đốn cây lá dựng lên ngôi đền thờ Bác trong khu rừng Đồng Ong Nghệ, thuộc ấp Hàm Rồng. Ngôi đền tuy nhỏ mà rất mực tôn nghiêm để bà con tới lui hương khói, sinh hoạt, báo công dâng Bác. Đội cũng tham gia tích cực trong việc lập đền và hứa với Bác quyết lập thêm nhiều chiến công mới, góp phần nhanh chóng giải phóng quê hương.

Do thiếu thốn phương tiện chiến đấu, do yêu cầu thực tế, có khi chiến đấu độc lập, có khi phối hợp nhưng các đội viên luôn mưu trí, dũng cảm, sáng tạo, linh hoạt bằng nhiều cách để giành thắng lợi. Không có súng thì các đội viên đi mượn; khi đánh tàu phải dùng loại trái B50, không có thì các em đi xin.

Điển hình như vào tháng 7/1970, các đội viên gồm: Trần Nam Việt, Trần Văn Bình, Huỳnh Hoàng Vân đi làm nhiệm vụ quan sát nắm tình hình địch thì phát hiện đoàn tàu sắt chở lính Sư đoàn 21 đổ quân đóng dọc theo kinh xáng Cái Ngay. Các đội viên nhận định: địch trụ quân rồi sẽ mở cuộc càn lớn vào căn cứ của ta. Sau khi bàn thảo về phương pháp ngăn chặn giặc, cuối cùng các đội viên quyết định “phải đánh phủ đầu” trước khi chúng gây nợ máu với hân dân.

Quyết tâm thì có, nhưng không có vũ khí thì làm sao “địch” nổi với giặc? Sau những phút suy nghĩ, bàn bạc, 3 đội viên quyết định đến gặp đồng chí Năm Thạnh (Bùi Văn Thạnh), Huyện đội phó, mượn 3 khẩu súng gồm 1 khẩu B40, 1 khẩu AK và 1 khẩu M16. Riêng khẩu B40, trong số 3 đội viên không ai biết sử dụng nên nhờ đồng chí Năm Thạnh hướng dẫn.

Nhận súng xong, các đội viên băng rừng, vượt qua sông Hàm Rồng tiếp cận nơi đóng quân của địch trên kinh xáng Cái Ngay. Lợi dụng đêm tối, các em đồng loạt nổ súng vào đội hình của địch. Bị đánh bất ngờ, hàng ngũ địch rối loạn, hoang mang, hốt hoảng phải gọi trực thăng đến thả pháo sáng, bắn phá xung quanh vùng chúng đóng quân.

Sau loạt súng đầu tiên phủ đầu địch, các đội viên nhanh chóng di chuyển đội hình vào mé rừng tiếp tục nổ súng, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó nhiều hướng. Cứ như thế, các đội viên chiến đấu từ lúc trời chưa sáng đến 4 giờ chiều địch mới rút quân. Nhờ đó, đã bẻ gãy cuộc càn với quy mô lớn của địch.

Một trận tiêu biểu khác cũng cho thấy sự năng động, mưu trí, gan dạ của các đội viên là trận đánh tập kích vào đại đội bảo an đóng quân ở vàm kinh Tư Là vào cuối năm 1970. Khi bám sát 1 đại đội bảo an địch hành quân từ Cả Nẩy đi đến vàm kinh Tư Là và co cụm đóng quân, 5 đội viên gồm: Trần Nam Việt, Trần Thanh Bình, Trần Minh Châu, Huỳnh Hoàng Vân và Phan Văn Toã bàn cách đánh tập kích khi chúng còn “chân ướt, chân ráo” chưa quen địa hình.

Các đội viên cũng mượn của Xã đội Năm Căn 5 khẩu súng gồm 2 khẩu AK, 2 khẩu M16, 1 khẩu M2. Có súng, 5 đội viên bơi xuồng đến gần nơi địch đóng quân. Phương án tác chiến được vạch ra. Tổ 1 gồm 2 đội viên, có nhiệm vụ nổ loạt đạn đầu tiên vào đội hình địch đóng quân rồi rút về sau. Tổ 2 gồm 3 đội viên có nhiệm vụ nổ súng khi bọn lính tràn ra rượt đuổi các đội viên tổ 1. Y như kế hoạch, sau loạt đạn đầu của tổ 1, bọn lính liền tràn ra truy kích. Trong lúc đó, tổ 2 nổ những loạt đạn đỡ ngực, làm chết 2 tên. Các đội viên nhanh chóng rút khỏi trận địa an toàn và đi trả súng cho Huyện đội. Các đội viên chỉ còn tay không mà trong lòng vẫn còn nóng hổi quyết tâm tìm cách đánh giặc.    

Từ năm 1971 đến ngày 30/4/1975, Đội. ngoài đánh riêng lẻ, còn phối hợp với các đơn vị vũ trang huyện, du kích xã tham gia hàng chục trận đánh tàu, tập kích đồn bót, chống càn, lập nhiều chiến công lớn, góp phần chung vào công cuộc giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Đại tá Huỳnh Hoàng Vân, nguyên Phó Chủ nhiệm chính trị Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, cũng là thành viên Đội, chia sẻ: Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, quân dân xã Hàm Rồng (ngày nay) lập được nhiều thành tích tiêu biểu, được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Trong đó, Đội Du kích tí hon Hàm Rồng vinh dự có những đóng góp xứng đáng cho thành tích vẻ vang này./.

Chung Thuỷ 

Liên kết hữu ích

Trung đoàn Đặc công Đ10 kỷ niệm 80 năm thành lập

Ngày 9/8, Trung đoàn Đặc công Đ10 Anh hùng long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, khẳng định truyền thống vẻ vang và tiếp nối ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng cho thế hệ sau.

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.