Tại Hội thảo “Giải pháp cấp thiết bảo vệ vùng đồng bằng sông Cửu Long” được tổ chức vào tháng 5 vừa qua tại TP Cần Thơ, ông Nguyễn Văn Hiếu, Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bí thư Thành uỷ TP Cần Thơ, cho rằng, thời gian qua, Chính phủ và các bộ, ngành đã dành sự quan tâm lớn, có nhiều chủ trương, chính sách để tháo gỡ khó khăn, phát huy thế mạnh, tiềm năng toàn vùng, đã và đang mang lại nhiều kết quả tích cực, góp phần hoá giải được nhiều thách thức trong sản xuất nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế nói chung. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu (BÐKH) tiếp tục gây hậu quả nặng nề, luôn là nỗi trăn trở đối với vùng, nhất là về an ninh nguồn nước, cần phải có giải pháp cấp bách, căn cơ, kịp thời hành động quyết liệt, có trách nhiệm để ứng phó hiệu quả, mở ra vận hội mới.
- Đồng bằng sông Cửu Long: Thách thức, thời cơ và vận hội mới
- Đồng bằng sông Cửu Long: Thách thức, thời cơ và vận hội mới - Bài 2: Mở đường phát triển
- Đồng bằng sông Cửu Long: Thách thức, thời cơ và vận hội mới - Bài 3: Ðầu tư cho thuận thiên là cấp thiết
Theo ông Nguyễn Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), hiện đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) có hơn 9 triệu người được sử dụng nước sạch tập trung, đáp ứng 67% dân số vùng nông thôn. Tuy nhiên, trong đó có 70% sử dụng từ mạch nước ngầm, đây là vấn đề rất đáng quan tâm. Ngoài ra, hiện có khoảng 5 triệu người (với 1 triệu hộ) chưa được thụ hưởng nước sạch tập trung, chủ yếu trữ nước mưa để sử dụng. Theo đó, Bộ NN&PTNT đưa ra yêu cầu, từ đây đến năm 2025 tiếp tục đầu tư các công trình cấp nước sạch tập trung, phục vụ sinh hoạt, chủ yếu ở 8 tỉnh ven biển từ nguồn nước mặt.
Tại Cà Mau, giai đoạn 2021-2025, tổng nguồn hỗ trợ các dự án nông nghiệp là 2.507 tỷ đồng. Trong đó ngân sách Trung ương 970 tỷ đồng (39%), ngân sách địa phương 655 tỷ đồng (26%) và vốn nước ngoài (ODA) 882 tỷ đồng (33%). Riêng năm 2023, dự án ngành nông nghiệp 994 tỷ đồng (chủ yếu khắc phục thiên tai). Trong đó ngân sách Trung ương 710 tỷ đồng, ngân sách địa phương 190 tỷ đồng và vốn nước ngoài (ODA) 94 tỷ đồng. Ðồ hoạ: LÊ TUẤN
An ninh nguồn nước
Ông Nguyễn Văn Vĩnh, Chủ tịch UBND tỉnh Tiền Giang, khẳng định, qua các mùa hạn mặn, hệ thống ngăn mặn đã vận hành kịp thời, mang lại hiệu quả khá ổn định, tuy nhiên khô hạn kéo dài, xâm nhập mặn càng sâu, phần nào gây khó khăn cho sản xuất. Ông Vĩnh cho biết, hiện có 4 tỉnh là Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long và Bến Tre thống nhất kiến nghị Trung ương cho chủ trương xây đập trên sông Hàm Luông, phục vụ việc giữ ngọt, ngăn mặn triệt để. Ðây không chỉ phục vụ tỉnh Bến Tre mà liên vùng trọng điểm về cây ăn trái của Việt Nam.
Cũng là địa phương cuối nguồn, ông Lê Văn Hẳn, Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh, mong sớm triển khai đầu tư tuyến Hành lang ven biển phía Nam đúng tiến độ, vì đây là công trình mang tính liên kết vùng kết hợp ngăn mặn, chống tràn.
“Là một trong các tỉnh đang đứng trước nguy cơ thiếu nước sản xuất, sinh hoạt ngày càng lớn hơn, nhiều hơn, xét thấy cần chủ động trước một bước với nhiều phương pháp khác nhau. Vào mùa khô, hầu hết đều khai thác nước ngầm để sử dụng, kéo theo nhiều nguy cơ. Ðề nghị Chính phủ có chương trình hỗ trợ vốn, hoặc những chính sách ưu tiên cho kế hoạch hỗ trợ người dân trữ nước riêng lẻ, nhất là trữ nước mưa, vì hằng năm trữ lượng từ nguồn này rất lớn, tận dụng lại rất ít, phần lớn bỏ đi, rất tiếc”, ông Hẳn đề xuất; đồng thời cho rằng cần nạo vét, khơi thông các kênh, mương nhằm dẫn và trữ nước ngọt, ứng phó hạn hán.
Theo ông Lâm Minh Thành, Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang, kể từ khi công trình Cái Lớn - Cái Bé đi vào vận hành, hiệu quả mang lại rất tích cực. Trên 384.000 ha vùng hưởng lợi từ công trình này, vùng nông nghiệp 5 tỉnh: Kiên Giang, Hậu Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng đã có nhiều thay đổi, liên tiếp những vụ mùa sản xuất ổn định, phát triển bền vững.
“Người sản xuất nông nghiệp vùng này chuyển dần từ chống đỡ sang chủ động, kiểm soát nguồn nước ngọt, mặn, lợ, giúp người dân thay đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp. Nhiều mô hình sản xuất theo hệ sinh thái luân phiên theo quy hoạch, giúp giảm từ 10-15% chi phí sản xuất và tăng 20% hiệu quả kinh tế; cùng với đó đã tiết kiệm hàng trăm tỷ đồng cho việc đắp đập ngăn mặn mỗi khi mùa khô đến”, ông Lâm Minh Thành phấn khởi chia sẻ, đồng thời khẳng định, qua 2 năm vận hành, đến nay đã đánh giá được tư duy, tập quán sản xuất được thay đổi, dần thuận thiên, chủ động và thích ứng.
Ông Lê Văn Sử, Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, cho biết, địa phương chịu ảnh hưởng của thiên tai quanh năm, luôn trong tâm thế chống đỡ. Mưa thì gây ngập, phải xả hoặc bơm bỏ, nhưng khi nắng kéo dài thì thiếu nước, gây hạn hán, làm sụt lún đất, thiệt hại hạ tầng xây dựng, giao thương ngưng trệ. Mùa khô, người dân luôn thiếu nước sạch sinh hoạt và ngày càng nguy cấp hơn trong việc phòng cháy, chữa cháy rừng.
“Mỗi khi mùa khô đến là Cà Mau đứng trước nguy cơ cháy rừng, mà một khi đã cháy thì không có nước để dập lửa. Khi đó sẽ là thảm hoạ môi trường nếu không được ngăn chặn kịp thời, để cháy lớn”, ông Lê Văn Sử trăn trở.
Đặc thù của Cà Mau là sử dụng nước trời và khai thác nước ngầm, nguồn nước ngọt vốn khan hiếm. Tuy nhiên, việc tích trữ, tiếc kiệm nguồn nước chưa phát huy hiệu quả, dẫn đến mưa thì ngập phải bơm bỏ, nắng thì bị hạn, ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống của người dân.
Cà Mau vừa xây dựng hoàn thành hồ chứa nước ngọt nhưng diện tích hạn chế, chỉ đáp ứng cơ bản về nước sinh hoạt cho người dân trong khu vực. Tỉnh mong muốn hình thành thêm hồ chứa nước ngọt quy mô khoảng 100 ha, nhằm tăng cường khả năng trữ nước ngọt, ứng phó hạn hán.
Liên quan đến lĩnh vực nước sạch, nước sinh hoạt cho người dân, đặc biệt là về hồ chứa, ông Trần Duy Ðông, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, đề xuất cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ những khu vực khó khăn, khan hiếm nguồn nước sạch thông qua hỗ trợ nghiên cứu, đầu tư các hệ thống hồ chứa với quy mô lớn (khoảng 30 ha/hồ) trữ nguồn nước ngọt dự phòng. Thứ trưởng Trần Duy Ðông yêu cầu bố trí một khoản riêng để đầu tư các dự án ngăn mặn, trữ ngọt cho toàn vùng ÐBSCL trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030.
Tư duy mới, tầm nhìn mới
Phát biểu tại Hội nghị Hội đồng Ðiều phối vùng ÐBSCL lần thứ tư vừa qua tại Cà Mau, đồng chí Lê Minh Khái, Phó thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Hội đồng Ðiều phối, khẳng định, Chính phủ rất quan tâm và xem trọng vai trò, tầm quan trọng của vùng ÐBSCL trong tiến trình phát triển của đất nước. Ðiều này được thể hiện khi ÐBSCL là vùng đầu tiên trong 6 vùng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch vùng và ban hành kế hoạch thực hiện quy hoạch. Ðến nay, 13/13 tỉnh, thành phố, thuộc vùng đã được phê duyệt quy hoạch tỉnh và hoàn thành tổ chức công bố quy hoạch.
Phó thủ tướng Lê Minh Khái chỉ rõ, kinh tế của vùng tuy tăng trưởng khá nhưng chưa thực sự bền vững, quy mô còn rất khiêm tốn (chỉ chiếm 12% quy mô GDP cả nước). Thách thức ngày càng hiện rõ, là vùng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của BÐKH và nước biển dâng, gây ra nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, ảnh hưởng đến sinh kế và đời sống người dân.
Ðể phát triển năng động hơn trong tương lai, Phó thủ tướng Lê Minh Khái yêu cầu cần tập trung và quán triệt nghiêm túc, thực hiện quyết liệt, hiệu quả, thực chất các nhiệm vụ, giải pháp đề ra nhằm phát triển nhanh và bền vững vùng ÐBSCL theo tinh thần các nghị quyết của Ðảng, Quốc hội, Chính phủ; các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch do Thủ tướng Chính phủ ban hành. Ðặc biệt là Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững vùng ÐBSCL thích ứng với BÐKH...
Để ĐBSCL tăng tốc phát triển và cất cánh bay cao, vươn xa, cần tiếp tục đầu tư những dự án trọng điểm nhằm khai thác lợi thế, tạo bứt phá, theo kịp xu thế hội nhập và phát triển toàn cầu. (Trong ảnh: Tỉnh Cà Mau kêu gọi đầu tư xây dựng cảng biển tổng hợp Hòn Khoai, cửa ngỏ giao thương quốc tế cho ĐBSCL).
Theo Phó thủ tướng, thực hiện chiến lược này, trước mắt cần tập trung cơ cấu lại các ngành kinh tế theo hướng hiện đại, ưu tiên phát triển các ngành, lĩnh vực có thế mạnh như: phát triển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, sinh thái, bền vững gắn với các sản phẩm trọng tâm của vùng, là thuỷ sản, trái cây và lúa gạo gắn với các cụm ngành nông, lâm, thuỷ sản, các trung tâm đầu mối. Tập trung nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ. Phát triển công nghiệp xanh, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, nhất là điện gió, điện mặt trời gắn với bảo vệ rừng và bờ biển. Trong phát triển kinh tế biển, chú trọng phát triển du lịch, dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, khai thác dầu khí và năng lượng tái tạo, nuôi và khai thác hải sản xa bờ, các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, tái tạo nguồn lợi thuỷ sản và bảo vệ nguồn đa dạng sinh học biển. Ưu tiên đầu tư, đẩy nhanh các dự án động lực, trọng điểm, có tính lan toả lớn, có tính liên kết vùng, liên tỉnh để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của vùng, tập trung vào các tuyến cao tốc; dự án đầu tư xây dựng cảng biển Trần Ðề, Hòn Khoai...
Để ĐBSCL tăng tốc phát triển và cất cánh bay cao, vươn xa, cần tiếp tục đầu tư những dự án trọng điểm nhằm khai thác lợi thế, tạo bứt phá, theo kịp xu thế hội nhập và phát triển toàn cầu. (Trong ảnh: Tỉnh Cà Mau kêu gọi đầu tư xây dựng cảng biển tổng hợp Hòn Khoai, cửa ngỏ giao thương quốc tế cho ĐBSCL).
Phó thủ tướng Lê Minh Khái khẳng định, con đường phát triển bền vững của ÐBSCL phải đi từng bước vững chắc trong ứng phó và thích ứng BÐKH, đó là giải pháp công trình và phi công trình. Theo đó, biến thách thức thành thời cơ và nhiệm vụ cấp thiết là cần chủ động hành động, mở ra không gian phát triển, khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế, để ÐBSCL tiếp tục vững vàng là trung tâm nông nghiệp của Việt Nam và thế giới.
“Một số nội dung, nhiệm vụ cụ thể thực hiện các nội dung, nhiệm vụ tại Nghị quyết số 78/NQ-CP của Chính phủ cho vùng còn chưa đáp ứng được tiến độ đề ra do một số nội dung mới, lĩnh vực nghiên cứu rộng, cần nhiều thời gian nghiên cứu, rà soát; một số cơ chế, chính sách ban hành đã dành nhiều sự quan tâm cho các địa phương trong vùng nhưng chưa thực sự mang tính đột phá, tạo sức bật đáng kể. Tuy nhiên, với tổng số 363 chương trình, dự án của quy hoạch được xác định, đây là những dự án lớn, quan trọng, có tính chất dẫn dắt, có tác dụng lan toả, sẽ ưu tiên tập trung đầu tư trước, đầu tư dứt điểm và đưa vào sử dụng để làm mồi dẫn thu hút các nguồn lực xã hội, nhất là nguồn vốn ngoài ngân sách. Trong đó, hạ tầng giao thông được xác định là một trong những khâu đột phá chính cho phát triển kinh tế - xã hội vùng nói chung và thúc đẩy liên kết vùng nói riêng..."
(Trích Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Ðầu tư tại Hội nghị lần thứ Tư, Ban Chỉ đạo Ðiều phối vùng ÐBSCL năm 2024).
Trần Nguyên