ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 21-8-25 21:59:58
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nan giải bài toán quản lý đất đai - Bài 2: Giải phóng mặt bằng mất nhiều thời gian

Báo Cà Mau (CMO) Giải phóng mặt bằng là yếu tố quan trọng mang tính quyết định trong thu hút vốn đầu tư, giải ngân vốn đầu tư công. Bên cạnh đó, góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, tạo cho người dân bị thu hồi đất có cuộc sống ổn định hơn. Tuy nhiên, đây cũng là công việc vô cùng khó khăn, tình trạng khiếu nại, tố cáo xảy ra ở hầu hết các công trình, dự án.

Kể từ năm 2018 đến nay, HĐND tỉnh đã thông qua 121 dự án, công trình vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, với diện tích đất thu hồi là 1.420,23 ha. Theo đó, tổng kinh phí thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng là 959,9 tỷ đồng. Đến nay, công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng đối với các dự án, công trình cơ bản hoàn thành.

Khó khăn từ quản lý lỏng lẻo

Nhờ giải quyết tốt những phát sinh ngay từ đầu nên công tác giải phóng mặt bằng trục đường Đông - Tây trên địa bàn huyện Đầm Dơi đạt kết quả khả quan.

Dù công tác giải phóng mặt bằng nhiều dự án kịp thời đáp ứng tiến độ, tiêu biểu như dự án xây dựng Bệnh viện Lao và Bệnh phổi; đường trục chính Đông - Tây, trên địa bàn tỉnh Cà Mau; dự án tạo quỹ đất sạch Khu công nghiệp Hoà Trung... Thế nhưng, thực tế công tác giải phóng mặt bằng trên địa bàn tỉnh cho thấy mỗi công trình lại phát sinh nhiều vấn đề mới, mâu thuẫn mới giữa lợi ích của người dân và quy định của Nhà nước.

Việc quản lý đất đai của chính quyền địa phương ở một số nơi qua các thời kỳ còn lỏng lẻo, là nguyên nhân khiến phát sinh nhiều vấn đề khó khăn khi giải phóng mặt bằng. Liên quan đến tình trạng này, Phó giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Huỳnh Thanh Dũng chỉ rõ, việc lấn chiếm đất công, chuyển mục đích sử dụng đất trái phép, sang nhượng đất không theo đúng quy định của pháp luật còn thường xuyên xảy ra. Ngoài ra, việc tranh chấp đất, tranh chấp ranh đất, lấn chiếm đất còn xảy ra nhiều nhưng chính quyền địa phương không giải quyết dứt điểm ngay từ khi mới phát sinh, để kéo dài, đến khi giải phóng mặt bằng thì hộ dân cản trở, khiếu kiện gây chậm trễ.

Hiện trên địa bàn tỉnh còn nhiều dự án vướng mặt bằng để nhà thầu thi công. (Ảnh chụp tại xã Tân Thuận, huyện Đầm Dơi).

Việc lỏng lẻo trong quản lý đất đai dễ thấy nhất chính là phần đất công ích giao cho xã, phường, thị trấn. Dù trên danh nghĩa là giao cho địa phương quản lý nhưng hầu như không có giấy tờ gì mà chỉ vào sổ mục kê hay sổ địa chính và không ít nơi đã tiến hành cho mượn, thuê…, điều đáng nói là đến nay khi Nhà nước cần thì không thể thu hồi. Trường hợp xảy ra tại xã Tân Phú, huyện Thới Bình là một ví dụ cụ thể. Sau khi giao về cho xã quản lý (đất nông nghiệp), xã đã tiến hành cho một số hộ dân thuê lại. Tuy nhiên, vào năm 2006 đến hạn thanh lý hợp đồng thì các hộ này lại cố giữ không giao trả lại.

Liên quan đến tình trạng này, Phó chủ tịch UBND huyện Thới Bình Lý Minh Vững cho biết, huyện đang gặp rất nhiều khó khăn trong xử lý vụ việc này, phải tới lui xin ý kiến nhiều nơi. Thu hồi dân không trả, khởi kiện ra toà án thì toà không thụ lý do không có giấy tờ và câu chuyện này cứ thế kéo dài cho đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm.

Sự quản lý lỏng lẻo ở địa phương còn thể hiện ở việc để người dân sử dụng đất chưa đúng mục đích theo GCNQSDĐ thường xuyên xảy ra. Đặc biệt là việc xây dựng các công trình trái phép khá phổ biến, đến khi thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ theo quy định của Nhà nước thì giá trị bồi thường không tương xứng với giá trị thực tế người dân đã đầu tư, dẫn đến việc người dân yêu cầu, khiếu nại.

Tình trạng người dân sử dụng đất không đúng mục đích còn có nguyên nhân là sự thiếu thống nhất, đồng bộ trong công tác quản lý giữa các ngành. Nếu như trước đây người dân xây dựng cơ bản phải xin phép thì giờ chỉ khu vực nằm trong quy hoạch chi tiết trung tâm hành chính xã, khu dân cư tập trung và khu vực thị trấn thì mới cần xin phép.

Đó là chưa kể ý thức chấp hành quy định pháp luật về đất đai của một bộ phận người dân chưa cao. Nhiều hộ chuyển nhượng quyền sử dụng đất bằng giấy tay; sử dụng đất không có giấy tờ pháp lý; nhiều hộ không hợp tác trong việc xác định ranh giới thửa đất, không cung cấp giấy tờ có liên quan… tất cả khiến công tác bồi thường giải phóng mặt bằng vốn đã khó lại càng khó hơn.

Sai sót từ hồ sơ gốc

Không chỉ có công tác quản lý thực tế lỏng lẻo mà ngay cả hồ sơ gốc liên quan đến lĩnh vực này cũng còn nhiều sai sót. Theo hồ sơ đo đạc thành lập bản đồ địa chính từ năm 2002-2007 và hồ sơ đo đạc chỉnh lý bản đồ địa chính từ năm 2009-2012, trên địa bàn tỉnh có nhiều GCNQSDĐ của tổ chức và hộ gia đình, cá nhân sai sót nhất định về vị trí, diện tích... nên khi tổ chức thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng phải mất thời gian kiểm tra, rà soát, đối chiếu.

Liên quan đến tình trạng này, Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Thới Bình Lê Chí Tâm cho biết, có những khó khăn xuất phát từ sai sót của hệ thống các bản đồ địa chính, mà có những sai sót không chỉ đơn thuần chỉnh lý phía sau GCNQSDĐ là được, mà đòi hỏi phải tiến hành đo đạc lại. Thực trạng này trên địa bàn huyện xảy ra rất nhiều khi đối chiếu các bản đồ địa chính với nhau, nhất là không trùng vị trí.

Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng trên địa bàn huyện Ngọc Hiển càng khó khăn hơn khi tồn tại song song giữa công tác quản lý lâm nghiệp và quản lý địa phương. Đất của huyện Ngọc Hiển chủ yếu do chủ rừng quản lý và phần lớn chủ rừng đã hợp đồng giao khoán lại cho người dân. Từ đó, câu chuyện khiến nhiều người trăn trở là khi lập phương án bồi hoàn giải phóng mặt bằng thì làm việc với ai, chủ rừng hay người dân nhận khoán?

Theo Phó bí thư Thường trực Huyện uỷ Ngọc Hiển Lý Hoàng Tiến, đa phần là làm việc với hộ dân, tức là người nhận khoán chứ không phải chủ đất thật sự. Đây là vấn đề mà địa phương vô cùng băn khoăn. Trường hợp hộ nhận khoán lâu năm, việc lập phương án bồi thường với hộ dân có phần hợp lý, còn đối với những hộ mới nhận khoán vài năm thì chưa phù hợp.

Khâu lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và công tác quản lý theo quy hoạch đã được duyệt đang là vấn đề nan giải. Theo Giám đốc Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Nguyễn Chí Nhẫn, quy hoạch sử dụng đất thường kỳ là 10 năm xây dựng 1 lần, kế hoạch điều chỉnh thường cũng phải 5 năm. Do đó, trong quá trình tiến hành quy hoạch hay kế hoạch không thể tính toán hết được chính xác vị trí, quy mô công trình, dự án. Từ đó, khi bắt tay vào thực hiện dự án, công trình cụ thể không đúng với vị trí, quy mô diện tích… Do đó, phải tiến hành điều chỉnh hay lập mới mất rất nhiều thời gian mà trường hợp trong thực tế của tỉnh gặp rất nhiều./.

Bài 3: KHÓ VIỆC ÁP GIÁ ĐẤT

Nguyễn Phú

Khi “thủ phủ tôm” căng buồm ra biển lớn - Bài cuối: Hướng đến hình mẫu của quốc gia về tôm sạch - bền vững

“Cà Mau đang quyết tâm phát triển ngành tôm không chỉ tăng về sản lượng mà còn nâng cao chất lượng, hướng tới ngành hàng công nghệ cao, sạch, thân thiện với môi trường và có giá trị gia tăng lớn. Mục tiêu là dẫn đầu cả nước về xuất khẩu thủy sản, đưa Cà Mau trở thành hình mẫu quốc gia về tôm sạch, bền vững và quan trọng nhất là giúp người dân làm giàu trên chính quê hương mình”, ông Lưu Hoàng Ly, Phó Giám đốc Sở NN&MT tỉnh Cà Mau nhấn mạnh.

ST25 trĩu bông, nông dân vùng ngọt hoá trúng lớn

Sau hơn 3 tháng gieo sạ, đến nay, trên Vùng ngọt hoá tiểu vùng III - Bắc Cà Mau, vụ lúa hè thu năm 2025 đã vào chính vụ. Trong những ngày này, tại các xã: Khánh Bình, Đá Bạc, Khánh Hải đang vào cao điểm thu hoạch.

Khi "Thủ phủ tôm" căng buồm ra biển lớn - Bài 3: Ðồng hành vượt thách thức, xoá rào cản

Sau hợp nhất, Cà Mau sở hữu không gian rộng mở và tiềm năng dồi dào để ngành tôm bứt phá. Thế nhưng, người nuôi và doanh nghiệp vẫn đối mặt nhiều rào cản, đòi hỏi sự đồng hành, hỗ trợ từ nhiều phía để vượt thách thức, phát triển bền vững, xứng tầm “thủ phủ tôm” cả nước.

Ninh Thạnh Lợi hôm nay

Khu Căn cứ Cái Chanh, di tích Quốc gia đặc biệt của xã Ninh Thạnh Lợi đã đổi thay rõ nét. Từ vùng đất phèn chua, cầu khỉ đơn sơ, nay thay bằng đường nhựa, cầu bê-tông và cánh đồng lúa thơm, tôm sạch. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao.

Khi “thủ phủ tôm” căng buồm ra biển lớn - Bài 2: Nuôi tôm sạch, chinh phục thị trường khó tính

Với định hướng phát triển ngành tôm theo hướng sinh thái (tôm – rừng, tôm – lúa), nuôi tôm siêu thâm canh ứng dụng công nghệ cao gắn với bảo vệ môi trường, đạt chuẩn quốc tế như ASC, BAP…, Cà Mau đang đi đúng hướng. Chiến lược này không chỉ khẳng định vị thế “thủ phủ tôm” của cả nước, mà còn giúp sản phẩm vươn tới những thị trường khó tính bậc nhất như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Australia…

Ưu tiên dòng vốn tín dụng cho sản xuất, kinh doanh

Ngành ngân hàng Cà Mau đang khẳng định vai trò “mạch máu” của nền kinh tế, kịp thời đưa vốn đến khu vực sản xuất – kinh doanh, hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp (DN) nhỏ và vừa, đặc biệt là lĩnh vực tam nông (nông nghiệp, nông dân, nông thôn).

Nông dân kỳ vọng giá lúa giữ đà tăng

Vụ lúa hè thu ở nhiều địa phương tỉnh đang vào giai đoạn trổ chín, dự kiến thu hoạch giữa tháng 8. Sau thời gian giá thấp, từ cuối tháng 7 đến đầu tháng 8/2025, giá lúa bắt đầu tăng nhẹ, tạo tín hiệu tích cực cho nông dân.

Khi "thủ phủ tôm" căng buồm ra biển lớn - Bài 1: Nhân đôi thế mạnh

LTS: Cà Mau và Bạc Liêu hợp nhất, mở ra tỉnh Cà Mau (mới) hội tụ nhiều tiềm năng, lợi thế về rừng, biển, về kinh tế nông nghiệp và đặc biệt là ngành hàng tôm - lĩnh vực đang dẫn đầu cả nước về diện tích, quy mô và sản lượng. Phát huy tiềm năng đó, tỉnh đang triển khai chiến lược phát triển tôm bền vững, hướng tới vị thế “thủ phủ tôm” quốc gia, để người dân nơi địa đầu cực Nam giàu lên từ con tôm.

Khảo sát toàn diện tiềm năng phát triển xã Khánh Lâm

Sáng 8/8, đồng chí Phạm Văn Thiều, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh, Tổ trưởng Tổ rà soát, đánh giá tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Cà Mau (cũ), đã đến làm việc với Khánh Lâm.

Thêm 536 tỷ đồng đầu tư phát triển thủy sản bền vững

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Lê Văn Sử vừa ký quyết định phê duyệt Dự án Phát triển thủy sản bền vững tỉnh Cà Mau, với tổng vốn đầu tư 536 tỷ đồng. Nguồn vốn thực hiện dự án bao gồm vốn vay từ Ngân hàng Thế giới (IBRD) và vốn đối ứng từ ngân sách tỉnh, thời gian triển khai trong giai đoạn 2026-2029.