ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 19-4-25 09:15:32
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nâng tầm kinh tế lâm nghiệp từ nguồn giống chất lượng

Báo Cà Mau (CMO) "Năng suất, chất lượng rừng trồng phụ thuộc rất lớn vào chất lượng cây giống. Tuy nhiên, việc đầu tư xây dựng nguồn giống có chất lượng phục vụ trồng rừng, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất giống... trên địa bàn tỉnh còn nhiều hạn chế", ông Trần Văn Thức, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nêu thực trạng.

Hiện tại, Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp U Minh Hạ đang quản lý 23.966 ha, trong đó diện tích quy hoạch trồng rừng trên 19.400 ha. Ngoài loài cây tràm bản địa, khu vực rừng tràm đã nhập ngoại cây keo lai và tràm Úc. Hiện nay, diện tích rừng keo lai trên lâm phần công ty là 5.924 ha, chiếm 32%.

“Bình quân, hằng năm công ty cung cấp cho thị trường trên 200 ngàn tấn gỗ - củi, tạo ra vùng nguyên liệu gỗ dồi dào trên khu vực rừng U Minh Hạ. Tuy nhiên, nguồn cây giống chất lượng chưa cao, đang thiếu, một số hộ dân mua cây giống trôi nổi, không rõ nguồn gốc xuất xứ với giá rẻ để trồng rừng, từ đó dẫn đến rủi ro, phát sinh sâu bệnh hại rừng trồng”, ông Trần Ngọc Thảo, Giám đốc Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp U Minh Hạ, chia sẻ.

Hiện nay, giống cây tràm trên địa bàn chưa có cơ sở sản xuất để phục vụ trồng rừng trong tỉnh, 100% giống tràm cho trồng rừng mua từ Hậu Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang, Long An...

Với giống cây keo lai, hiện có 2 cơ sở sản xuất giống nuôi cấy mô (với tổng năng lực sản xuất theo thiết kế là 1,3 triệu cây/năm). Tuy nhiên, khả năng sản xuất và cung ứng cho thị trường hiện cũng chỉ đạt khoảng 50 ngàn cây/năm (đáp ứng khoảng 1,1% nhu cầu trồng rừng), mặt khác giá thành cũng khá cao.

Ðối với giống cây keo lai giâm hom, hiện chỉ có 3 cơ sở sản xuất giống, khả năng cung ứng khoảng 3 triệu cây/năm, đáp ứng khoảng 67% nhu cầu trồng rừng toàn tỉnh.

Cùng với thay đổi phương thức canh tác, việc chuyển đổi giống cây trồng trong lâm nghiệp đã vực vậy kinh tế rừng ở Cà Mau, làm thay đổi dần đời sống cư dân vùng rừng. (Trong ảnh: Rừng keo lai trồng thâm canh rút ngắn thời gian sản xuất, nâng cao chất lượng và giá trị, cho thu nhập cao).

Ðối với khu vực rừng đước, diện tích trồng rừng mới và trồng sau khai thác hằng năm khoảng 1.200 ha, nhu cầu giống phục vụ trồng rừng khoảng 300-350 tấn trụ mầm đước/năm. Hiện nay, giống đước được cung ứng 100% cho trồng rừng ngập mặn trên toàn tỉnh và được thu gom trên lâm phần các ban quản lý rừng phòng hộ và Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Ngọc Hiển.

Qua khảo sát thực tế và nắm tình hình về rừng trong nhiều năm, ông Trần Văn Thức cho rằng, khả năng chống chịu của cây keo lai với các yếu tố thời tiết bất thường, điều kiện lập địa, quy trình kỹ thuật trồng rừng gỗ lớn... chưa được nghiên cứu, giải quyết. Ðó là vấn đề ngập úng, nền đất yếu, cây dễ bị lay gốc, gãy, ngã (khi có gió mạnh, dông, bão); giống tự sản xuất nhiều năm chưa được đánh giá, ảnh hưởng đến chất lượng rừng, khả năng kéo dài chu kỳ nuôi dưỡng tạo rừng gỗ lớn...

Từ thực tế trên, ông Trần Ngọc Thảo đề xuất, cần nâng cao năng lực sản xuất giống đạt chuẩn đáp ứng nhu cầu trồng rừng trên địa bàn; ưu tiên chọn các dòng mới phù hợp với lập địa nhiễm phèn, có năng suất cao, dẻo dai, khả năng kháng sâu bệnh tốt.

 Lên liếp trồng rừng tràm thâm canh mang lại giá trị kinh tế cao. (Ảnh chụp tại xã Nguyễn Phích, huyện U Minh)

"Tới đây, diện tích trồng rừng keo lai được nâng lên chiếm khoảng 60% diện tích rừng trồng, tương đương khoảng 11.290 ha); rừng tràm Úc và tràm cừ khoảng 40% diện tích rừng trồng, tương đương khoảng 7.527 ha. Trong đó, khi ưu tiên trồng rừng gỗ lớn thì nhu cầu về cây giống chất lượng ngày càng cao", ông Thảo thông tin thêm.

Tỉnh Cà Mau đề ra các mục tiêu phát triển lâm nghiệp cho giai đoạn 2021-2030, trong đó trồng rừng mới (phòng hộ, đặc dụng, sản xuất) 3.000 ha; khoanh nuôi tái sinh tự nhiên tạo lập rừng mới khu vực mới bồi 500 ha. Ðối với trồng lại rừng sau khai thác (rừng phòng hộ, sản xuất), bình quân 3.500 ha/năm; trong đó 10% diện tích rừng sản xuất là rừng gỗ lớn vào năm 2030.

Ông Trần Văn Thức cho biết thêm, theo định hướng phát triển của ngành, hướng tập trung chuyển đổi từ trồng rừng quảng canh sang trồng rừng thâm canh với diện tích 29.000 ha, bao gồm: rừng cây keo lai khoảng 12.000 ha, rừng cây tràm các loại 17.000 ha; trong đó rừng gỗ lớn loài cây keo lai chiếm khoảng 10% diện tích rừng trồng keo.

Kinh tế lâm nghiệp đang đi đúng hướng và ngày càng phát triển năng động, xứng đáng là ngành hàng chủ lực của địa phương. Theo đó, đầu vào là cây giống cần được chú trọng, quan tâm trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học nhằm tạo ra nguồn giống chất lượng, đồng nhất, từ đó góp phần tạo chuỗi giá trị sản xuất, nâng tầm kinh tế lâm nghiệp phát triển tương xứng với tiềm năng và lợi thế của địa phương./.

 

Trần Nguyên

 

Tạo điều kiện để đồng bào phát triển đời sống tốt hơn

Cùng với sự quan tâm, hỗ trợ của cấp trên, thời gian qua, các cấp uỷ đảng, chính quyền huyện Trần Văn Thời dành sự quan tâm đặc biệt chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn, cũng như tạo điều kiện cho đồng bào giữ gìn, phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp và làm đa dạng, phong phú bản sắc văn hoá các dân tộc anh em.

Cựu chiến binh Ngô Văn Xuyên gương mẫu phát triển kinh tế

Không trông chờ, ỷ lại vào các chế độ, chính sách của Nhà nước và sự trợ giúp của địa phương, với bản chất của anh Bộ đội Cụ Hồ, cựu chiến binh Ngô Văn Xuyên (72 tuổi, Ấp 2, xã Tắc Vân) luôn siêng năng, cần cù, tích cực trong lao động, thực hiện nhiều mô hình kinh tế có hiệu quả để tăng thu nhập, phát triển kinh tế gia đình.

Chuẩn bị xuống giống vụ lúa hè thu

Hiện nay, nông dân huyện Trần Văn Thời đang tập trung làm đất, chuẩn bị sẵn sàng lúa giống và các loại vật tư nông nghiệp, chờ đến lịch mùa vụ sẽ tiến hành xuống giống vụ lúa hè thu.

Gỡ khó, tạo đột phá cho kinh tế lâm nghiệp

Thời gian qua, rừng và đất lâm nghiệp không chỉ góp phần tạo việc làm, cải thiện sinh kế, giảm nghèo, mà còn mang lại giá trị trong nghiên cứu khoa học, bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái để phát triển bền vững. Tuy nhiên hiện nay, kinh tế lâm nghiệp vẫn chưa được phát huy xứng tầm với tiềm năng, do vẫn còn những điểm nghẽn.

Mùa chụp đìa

Vào mùa hạn, khi những cánh đồng nhấp nhô rơm rạ, các con kênh khô nước cũng là lúc vào mùa chụp đìa. Ở xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, mùa này là lúc bà con nô nức cùng nhau vần công để chụp đìa, chia cá. Dân ở xứ cá đồng cũng vui lây vì có thêm thu nhập lúc nông nhàn.

Hợp tác xã “Cây ăn trái sạch Khánh Hưng” hướng đến môi trường kinh doanh điện tử

Ðược thành lập và đi vào hoạt động hơn 5 năm qua, Hợp tác xã (HTX) "Cây ăn trái sạch Khánh Hưng", xã Khánh Hưng, huyện Trần Văn Thời không ngừng củng cố và nâng cao chất lượng. Ðặc biệt, HTX đang hướng đến môi trường kinh doanh điện tử, nhằm quảng bá sản phẩm và bắt nhịp với quá trình chuyển đổi số.

Sản xuất con giống - Phát triển nghề nuôi thuỷ sản

Giống thuỷ sản là đối tượng phục vụ nghề nuôi thuỷ sản, giúp tăng thu nhập cho nông dân. Tuy nhiên, thời gian qua, do môi trường nước ô nhiễm cùng với việc khai thác, đánh bắt theo cách huỷ diệt đã làm cho giống loài thuỷ sản ở môi trường tự nhiên gần như cạn kiệt.

Triển vọng nuôi cá tra thương phẩm

Hiện nay, nhiều hộ ở vùng ven TP Cà Mau thực hiện mô hình nuôi cá tra khá hiệu quả, mang lại nguồn thu nhập ổn định. Khác với quy mô công nghiệp như ở các tỉnh trong khu vực, mô hình nuôi cá tra ở đây khá đơn giản, ít tốn chi phí, được xem là hướng đi triển vọng cho nông dân.

Ðổi mới để nuôi tôm hiệu quả

Ðầm Dơi là huyện có diện tích nuôi trồng thuỷ sản lớn nhất tỉnh với hơn 62.000 ha, tuy nhiên, do nhiều yếu tố tác động nên đã ảnh hưởng đến sản xuất của người dân. Vì vậy, thời gian qua, nông dân trong huyện đã đổi mới, sáng tạo và thành công với nhiều mô hình sản xuất hiệu quả, trong đó có không ít mô hình là sáng kiến mới, cách làm hay, đã và đang được huyện nhân rộng.

Tạo động lực bứt phá cho ngành tôm

Ngành tôm - ngành kinh tế mũi nhọn, tiếp tục giữ vai trò chủ lực đóng góp cho phát triển kinh tế tỉnh, đóng góp 49% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2024, ước đạt 7.476 tỷ đồng. Không chỉ mang lại nguồn thu lớn, góp phần đưa Cà Mau vươn tầm trên bản đồ thuỷ sản Việt Nam và thế giới, ngành tôm còn tạo sinh kế bền vững cho hàng trăm ngàn hộ dân, thúc đẩy mô hình hợp tác, liên kết sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ.