(CMO) "Năng suất, chất lượng rừng trồng phụ thuộc rất lớn vào chất lượng cây giống. Tuy nhiên, việc đầu tư xây dựng nguồn giống có chất lượng phục vụ trồng rừng, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất giống... trên địa bàn tỉnh còn nhiều hạn chế", ông Trần Văn Thức, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nêu thực trạng.
Hiện tại, Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp U Minh Hạ đang quản lý 23.966 ha, trong đó diện tích quy hoạch trồng rừng trên 19.400 ha. Ngoài loài cây tràm bản địa, khu vực rừng tràm đã nhập ngoại cây keo lai và tràm Úc. Hiện nay, diện tích rừng keo lai trên lâm phần công ty là 5.924 ha, chiếm 32%.
“Bình quân, hằng năm công ty cung cấp cho thị trường trên 200 ngàn tấn gỗ - củi, tạo ra vùng nguyên liệu gỗ dồi dào trên khu vực rừng U Minh Hạ. Tuy nhiên, nguồn cây giống chất lượng chưa cao, đang thiếu, một số hộ dân mua cây giống trôi nổi, không rõ nguồn gốc xuất xứ với giá rẻ để trồng rừng, từ đó dẫn đến rủi ro, phát sinh sâu bệnh hại rừng trồng”, ông Trần Ngọc Thảo, Giám đốc Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp U Minh Hạ, chia sẻ.
Hiện nay, giống cây tràm trên địa bàn chưa có cơ sở sản xuất để phục vụ trồng rừng trong tỉnh, 100% giống tràm cho trồng rừng mua từ Hậu Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang, Long An...
Với giống cây keo lai, hiện có 2 cơ sở sản xuất giống nuôi cấy mô (với tổng năng lực sản xuất theo thiết kế là 1,3 triệu cây/năm). Tuy nhiên, khả năng sản xuất và cung ứng cho thị trường hiện cũng chỉ đạt khoảng 50 ngàn cây/năm (đáp ứng khoảng 1,1% nhu cầu trồng rừng), mặt khác giá thành cũng khá cao.
Ðối với giống cây keo lai giâm hom, hiện chỉ có 3 cơ sở sản xuất giống, khả năng cung ứng khoảng 3 triệu cây/năm, đáp ứng khoảng 67% nhu cầu trồng rừng toàn tỉnh.
Cùng với thay đổi phương thức canh tác, việc chuyển đổi giống cây trồng trong lâm nghiệp đã vực vậy kinh tế rừng ở Cà Mau, làm thay đổi dần đời sống cư dân vùng rừng. (Trong ảnh: Rừng keo lai trồng thâm canh rút ngắn thời gian sản xuất, nâng cao chất lượng và giá trị, cho thu nhập cao).
Ðối với khu vực rừng đước, diện tích trồng rừng mới và trồng sau khai thác hằng năm khoảng 1.200 ha, nhu cầu giống phục vụ trồng rừng khoảng 300-350 tấn trụ mầm đước/năm. Hiện nay, giống đước được cung ứng 100% cho trồng rừng ngập mặn trên toàn tỉnh và được thu gom trên lâm phần các ban quản lý rừng phòng hộ và Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Ngọc Hiển.
Qua khảo sát thực tế và nắm tình hình về rừng trong nhiều năm, ông Trần Văn Thức cho rằng, khả năng chống chịu của cây keo lai với các yếu tố thời tiết bất thường, điều kiện lập địa, quy trình kỹ thuật trồng rừng gỗ lớn... chưa được nghiên cứu, giải quyết. Ðó là vấn đề ngập úng, nền đất yếu, cây dễ bị lay gốc, gãy, ngã (khi có gió mạnh, dông, bão); giống tự sản xuất nhiều năm chưa được đánh giá, ảnh hưởng đến chất lượng rừng, khả năng kéo dài chu kỳ nuôi dưỡng tạo rừng gỗ lớn...
Từ thực tế trên, ông Trần Ngọc Thảo đề xuất, cần nâng cao năng lực sản xuất giống đạt chuẩn đáp ứng nhu cầu trồng rừng trên địa bàn; ưu tiên chọn các dòng mới phù hợp với lập địa nhiễm phèn, có năng suất cao, dẻo dai, khả năng kháng sâu bệnh tốt.
Lên liếp trồng rừng tràm thâm canh mang lại giá trị kinh tế cao. (Ảnh chụp tại xã Nguyễn Phích, huyện U Minh)
"Tới đây, diện tích trồng rừng keo lai được nâng lên chiếm khoảng 60% diện tích rừng trồng, tương đương khoảng 11.290 ha); rừng tràm Úc và tràm cừ khoảng 40% diện tích rừng trồng, tương đương khoảng 7.527 ha. Trong đó, khi ưu tiên trồng rừng gỗ lớn thì nhu cầu về cây giống chất lượng ngày càng cao", ông Thảo thông tin thêm.
Tỉnh Cà Mau đề ra các mục tiêu phát triển lâm nghiệp cho giai đoạn 2021-2030, trong đó trồng rừng mới (phòng hộ, đặc dụng, sản xuất) 3.000 ha; khoanh nuôi tái sinh tự nhiên tạo lập rừng mới khu vực mới bồi 500 ha. Ðối với trồng lại rừng sau khai thác (rừng phòng hộ, sản xuất), bình quân 3.500 ha/năm; trong đó 10% diện tích rừng sản xuất là rừng gỗ lớn vào năm 2030.
Ông Trần Văn Thức cho biết thêm, theo định hướng phát triển của ngành, hướng tập trung chuyển đổi từ trồng rừng quảng canh sang trồng rừng thâm canh với diện tích 29.000 ha, bao gồm: rừng cây keo lai khoảng 12.000 ha, rừng cây tràm các loại 17.000 ha; trong đó rừng gỗ lớn loài cây keo lai chiếm khoảng 10% diện tích rừng trồng keo.
Kinh tế lâm nghiệp đang đi đúng hướng và ngày càng phát triển năng động, xứng đáng là ngành hàng chủ lực của địa phương. Theo đó, đầu vào là cây giống cần được chú trọng, quan tâm trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học nhằm tạo ra nguồn giống chất lượng, đồng nhất, từ đó góp phần tạo chuỗi giá trị sản xuất, nâng tầm kinh tế lâm nghiệp phát triển tương xứng với tiềm năng và lợi thế của địa phương./.
Trần Nguyên