ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 2-8-25 21:02:45
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Người con đất Viên An

Báo Cà Mau (CMO) Trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940, tại Cà Mau, nổi bật với sự kiện khởi nghĩa Hòn Khoai. Tham gia cuộc khởi nghĩa này có chàng trai Bông Văn Dĩa (Hai Dĩa), quê ở làng biển nằm gần chót Mũi Cà Mau. Ông là người lái ghe đưa lực lượng khởi nghĩa từ đất liền ra đảo và trao chỉ thị khởi nghĩa của Tỉnh uỷ Bạc Liêu cho thầy giáo Hiển, lúc đó đang bí mật ở trên đảo.

Do sự phối hợp không đồng loạt của các địa phương, cuộc khởi nghĩa rơi vào thế cô lập, lực lượng khởi nghĩa bị Pháp bắt giữ. Tám chiến sĩ trực tiếp khởi nghĩa, gồm: Phan Ngọc Hiển, Ðỗ Văn Sến, Nguyễn Văn Ðắc, Nguyễn Văn Cự, Ðỗ Văn Biên, Nguyễn Văn Cẩn, Ngô Kinh Luân, Nguyễn Văn Ðình, cùng hai đồng chí Lê Tồn Khuyên thuộc Chi bộ thị trấn Cà Mau và đồng chí Quách Văn Phẩm, Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, bị đem ra hành quyết tại Sân vận động thị trấn Cà Mau, sáng 12/7/1941. Bông Văn Dĩa bị kêu án chung thân và đày ra Côn Ðảo. Năm 1945, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã giải thoát ông khỏi lao tù, trở về hoạt động trong Xứ uỷ Nam Bộ.

Sau Hiệp định Genève năm 1954, ông được phân công ở lại miền Nam, về quê Rạch Gốc làm nhiệm vụ cất giữ vàng và vũ khí. Từ đầu năm 1958, ông bí mật đưa rước cán bộ và chuyển tài liệu đi các tỉnh bằng đường sông, cả đường biển, với vỏ bọc hợp pháp của một ngư dân.

Tháng 6/1961, trong lúc tham gia chuẩn bị thành lập Mặt trận Giải phóng tỉnh Cà Mau, Bông Văn Dĩa được Tỉnh uỷ giao nhiệm vụ tổ chức ghe thuyền và người bí mật vượt biển ra Bắc xin chi viện vũ khí.

Ngày 1/8/1961, ông cùng bảy đồng đội xuất phát cuộc vượt biển đầu tiên ra Bắc tại rạch Cái Mòi bằng chiếc ghe đánh cá trọng tải nhỏ, chỉ năm tấn. Thời điểm đó, toàn bộ vùng biển miền Nam nằm trong sự kiểm soát của quân đội Sài Gòn.

Việc lấy Vàm Lũng làm cửa đón tàu có trọng tải vài ngàn tấn vào ngay thời điểm triều cường là đề xuất cực kỳ quan trọng của Bông Văn Dĩa. Ðây là bất ngờ hoàn toàn với cả hải quân Mỹ và Sài Gòn, vì chúng đinh ninh Vàm Lũng chỉ là cửa cạn. Gần ba năm đầu, Vàm Lũng đón hàng chục tàu, nhận hơn ngàn tấn vũ khí mà địch không hề hay biết. Cho đến khi sự kiện Vũng Rô tháng 2/1965, đường vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam mới bị giặc phát hiện...

Tượng đài di tích lịch sử Bến Vàm Lũng tại thị trấn Rạch Gốc, huyện Ngọc Hiển. Ảnh: MINH TẤN

Ðại tá Khưu Ngọc Bảy, nguyên Trung đoàn trưởng Ðoàn 962, nhớ lại: “Sau nhiều ngày khảo sát thực tế và nhất trí với Khu uỷ Khu 9 phương án trình Trung ương, đêm 26/7/1962, Bông Văn Dĩa cùng năm đồng đội lên đường ra Bắc lần thứ hai, trực tiếp báo cáo với Tổng bí thư Lê Duẩn và Trung tướng Trần Văn Trà phương án đón tàu tại bến Cà Mau”.

Chấp nhận phương án đề xuất của Khu 9, Trung ương quyết định cho tàu Phương Ðông 1 đưa 30 tấn vũ khí đầu tiên vào Nam Bộ, do Bông Văn Dĩa làm Chính trị viên, Lê Văn Một làm Thuyền trưởng, cùng với 10 thuỷ thủ. Tàu xuất phát tại bến Ðồ Sơn đêm 11/10/1962 và đến 6 giờ sáng ngày 16/10/1962, tàu an toàn vào cửa Vàm Lũng, Rạch Gốc, Cà Mau. Liên tiếp các ngày sau đó, ba tàu chở vũ khí vào bến Vàm Lũng an toàn. Ðường Hồ Chí Minh trên biển từ đây chính thức được khai thông.

Sau khi tàu Phương Ðông 1 vào bến Cà Mau, Ðoàn 962 gấp rút được thành lập, Bông Văn Dĩa được phân công làm Ðoàn phó. Ðây là đơn vị đón nhận và phân phối vũ khí cho cả Nam Bộ, gồm các bến đón: Bà Rịa, Bến Tre, Trà Vinh và Cà Mau.

Không chỉ đón được tàu, tiếp nhận được vũ khí, trong suốt những năm tồn tại, đơn vị bến còn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hết sức khó khăn, đó là cất giữ, vận chuyển và phân phối một khối lượng vũ khí rất lớn đến các chiến trường khắp Nam Bộ, trong điều kiện địch phong toả gắt gao, chà đi quét lại khắp vùng rừng đước Năm Căn, nhằm kiểm soát toàn bộ mặt biển và mặt sông khu vực này.

Ðoàn 962 đã tổ chức các đơn vị chiến đấu tinh nhuệ để bảo vệ bến bãi, kho tàng, căn cứ, đường vận chuyển... nổi tiếng là các đơn vị săn tàu.

Sau sự kiện Vũng Rô, đường không còn bí mật nữa. Ðối phương cho triển khai ngay chiến dịch mang tên Market Time, phân công rõ ràng: Hải quân Sài Gòn tuần tiểu ven bờ, hải quân Mỹ (hạm đội Bảy) ngăn chặn ngoài khơi. Toàn bộ vùng ven biển miền Nam được địch tổ chức thành 9 khu vực chiến đấu và 5 trung tâm giám sát lớn...

Ta chuyển qua hoạt động theo phương thức mới: Chấp nhận đối mặt với sự ngăn chặn và săn đuổi, bằng phương thức đi tàu lớn hơn, tốc độ cao hơn, đi xa hơn ra hải phận quốc tế, tìm mọi cách đánh lạc hướng địch, chọn thời điểm bất ngờ nhất, với tốc độ cao nhất, luồn lách qua lưới canh tuần của tàu địch, đâm thẳng vào các bến. Phương thức này đem lại thành công đầu tiên từ chuyến tàu 42 vào được bến Vàm Lũng đêm 15/10/1965. Từ đây, giai đoạn mới của con đường trên biển Ðông lại bắt đầu.

Ðây là giai đoạn đem lại nhiều kết quả nhất, nhưng hy sinh và mất mát cũng cao nhất. Vì bí mật của con đường không còn nữa, chỉ còn yếu tố bất ngờ. Giai đoạn này, toàn bộ các chuyến tàu đều được cài sẵn những khối thuốc nổ hàng tấn, để khi cần, có thể điểm hoả, như tàu 165, nổ cách bờ Cà Mau hơn 50 hải lý, toàn bộ thuỷ thủ đoàn 18 người đều hy sinh. Hàng loạt các con tàu khác bị phát hiện với những cuộc hỗn chiến giáp lá cà trên biển, nhiều tàu phải phá huỷ, nhiều chiến sĩ hy sinh, bị địch bắt...

Năm 1967, Bông Văn Dĩa được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân giải phóng.

Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, người con của đất Viên An này còn có những thành tích rất đặc biệt: Hai lần được Xứ uỷ Nam Bộ phân công sang Thái Lan mua vũ khí và đưa bộ đội hải ngoại về nước. Chuyến đi đầu, ông cùng vợ là bà Nguyễn Thị Hoài cải trang làm một gia đình thương nhân sang Thái mua bán. Ðến Thái Lan, mặc dù bị bắt giam bốn tháng nhưng khi vừa ra tù, ông chở ngay chuyến vũ khí, máy in... đầu tiên về Năm Căn. Lần thứ hai, để kết hợp đưa bộ đội hải ngoại về nước, cấp trên quyết định tổ chức bằng đường bộ. Trên đường vận chuyển, ông cùng đơn vị phải chiến đấu hơn 10 trận để bảo toàn vũ khí và lực lượng.

Sau khi thống nhất đất nước không lâu, ông xin được nghỉ hưu, về sống tại quê hương Rạch Gốc với một chiếc tàu đánh cá. Ông mất ngày 30/5/1983, mộ phần tại đất nhà. Mảnh đất nhỏ và ngôi nhà đơn sơ giờ đây là địa chỉ lịch sử, điểm du lịch về nguồn ở vùng địa đầu cực Nam Tổ quốc.

Ðể tri ân những đóng góp đặc biệt của ông, tháng 7/2012, huyện Ngọc Hiển khánh thành Nhà tưởng niệm Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Bông Văn Dĩa trong khu quần thể tượng đài di tích Ðoàn tàu Không số, tại ấp Xẻo Mắm, xã Tân Ân. Công trình được xây dựng từ sự chỉ đạo và đóng góp của Ðảng bộ huyện Ngọc Hiển cùng với Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Tư lệnh Vùng 5 Hải quân, Lữ đoàn 125, Quân khu 9, Ban Liên lạc Ðoàn 962 và các nhà hảo tâm. Ðây là nơi trưng bày các hình ảnh, kỷ vật có liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Anh hùng Bông Văn Dĩa, để nhắc nhở thế hệ trẻ về truyền thống giữ nước hào hùng của cha ông.

Ông Hai Dĩa sinh ra và lớn lên ở xứ sở của hạt phù sa Ðất Mũi, yêu rừng biển quê mình. Kỳ diệu nhưng cũng thật giản dị như tự nhiên, khi đất nước cần, ông đi đánh giặc; hết giặc, ông lại trở về với rừng biển, để ngày ngày lại giong tàu ra khơi thả lưới, đêm đêm nhìn lên đỉnh đèn hòn...

Tháng 12/2022

 

Lê Vũ Hoàng - Nguyễn Trọng Tín

 

Lắng lòng tháng bảy

Mỗi độ tháng Bảy về, đất trời như lắng lại không khí tri ân những người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong dòng chảy lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là dấu son, nhưng cũng đầy mất mát, bi thương. Tại Cà Mau, nhiều chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh anh dũng, để đổi lấy cuộc sống  hoà bình.

Ở ngã tư sông

Về trung tâm xã Ðầm Dơi, đi từ đường Dương Thị Cẩm Vân lên cầu, đập vào mắt là tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Dương Thị Cẩm Vân sừng sững bên bờ ở ngã tư sông, khắc ghi chiến công của nữ kiện tướng chiến hào trong những năm bao vây, đánh lấn Chi khu Ðầm Dơi. Ở góc tường rào bê-tông là bức phù điêu tái hiện cuộc chiến đấu kiên cường của quân và dân huyện Ðầm Dơi ngày trước trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tiếc là ở đây còn thiếu tượng đài khắc hoạ hình ảnh 26 người chết và hàng trăm người bị thương, hàng chục người bị bắt bớ, tù đày trong cuộc đấu tranh trực diện ngày 23/10/1961 quy mô lớn nhất và bị đàn áp đẫm máu nhất trong tỉnh lúc bấy giờ.

Quá khứ hào hùng - Hiện tại vươn xa

Báo - đài là hợp chất gắn kết niềm tin giữa Ðảng với Nhân dân như bê-tông cốt thép, là ngọn lửa giữa đêm đông nung sôi bầu nhiệt huyết hàng triệu trái tim yêu nước, thương dân; là ánh đèn pha giữa đêm đen soi sáng mọi bước đường khi dân tộc ta xông lên chiến đấu và chiến thắng quân thù; là ánh mặt trời chân lý xua tan âm u, tâm tối, đem lại mùa xuân của hạnh phúc con người và tô thắm màu cờ của nhận thức, lý tưởng, lẽ sống đối với biết bao thế hệ...

Một thời làm báo

Cà Mau, mảnh đất tận cùng Tổ quốc, nơi sông ngòi chằng chịt, rừng đước bạt ngàn và con người mang trong mình chất mộc mạc, chân thành, hào phóng của miền Tây Nam Bộ. Ở đó, tôi đã sống và cống hiến với những năm tháng làm báo đầy nhiệt huyết, nơi mà mỗi dòng chữ, mỗi câu chuyện đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười. Một thời làm báo tại Cà Mau là ký ức không thể quên, như cuốn sách cũ, dù thời gian có làm phai màu bìa, nhưng những trang bên trong vẫn sống động.

Báo giấy - Ký ức một thời vàng son

Chẳng nhớ rõ từ khi nào, những sạp báo giấy giữa lòng thành phố đã biến mất dần trong xu thế không thể tránh khỏi khi công nghệ thông tin bùng nổ, với sự "lên ngôi" của báo điện tử, mạng xã hội. Báo giấy - mấy ai còn nhớ một thời vàng son...

Những địa chỉ đỏ trên quê hương anh hùng

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Cà Mau là căn cứ địa cách mạng, là địa bàn đứng chân hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước. Từ rừng đước, rừng tràm thành làng rừng kháng chiến; từ xóm ấp, chùa chiền, nhà dân thành nơi nuôi chứa cán bộ.

Nhà báo Trần Ngọc Hy một lòng trung kiên, bất khuất

Năm 1943, tốt nghiệp Diplôme, Trần Ngọc Hy về quê tham gia phong trào nông dân đấu tranh chống bọn địa chủ ác bá, chống bọn chính quyền tay sai hà khắc bóc lột nông dân, chống sưu cao thuế nặng.

Báo chí cách mạng Cà Mau góp phần động viên, cổ vũ kháng chiến

Báo chí cách mạng không những góp phần động viên, cổ vũ mà còn là “vũ khí sắc bén” trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thống nhất đất nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong nhiều loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ vũ khí “thanh cao mà đắc lực”, “có sức mạnh hơn mười vạn quân”. Ðó là văn chương nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, báo chí cách mạng Hồ Chí Minh.

Phan Ngọc Hiển - Nhà báo cách mạng trên vùng đất Nam Bộ

Tuần báo Tân Tiến số phát hành trung tuần tháng 2/1937, chủ bút Hồ Văn Sao giới thiệu với độc giả: “Bạn tôi Phan Ngọc Hiển, tức Phan Phan, một nhà văn chân chính - lương tâm, bắt đầu đi khắp Nam Kỳ để làm phận sự nhà báo - năm nay lần lượt bạn Phan Ngọc Hiển sẽ hiến cho độc giả: 1. Ðại náo thôn quê - 2. Tinh thần bạn trẻ nước nhà - 3. Giọt nước mắt của dân - 4. Thương - là 4 vấn đề quan hệ xã hội cần thay đổi - muốn tránh sự sơ sót, ngoài những tài liệu của bạn tôi thâu thập trong những lúc gian nan, nay bạn tôi cần đi viếng các làng, dân quê, bạn trẻ... cho cuộc điều tra thêm chu đáo - luôn tiện biết nhau, biết điều sơ sót của Tân Tiến đặng sửa đổi...”.

Nguyễn Mai và những chuyện đời thường

Người đa tài nhất trong những người cầm bút vùng Tây Nam Bộ những năm đánh Mỹ cứu nước là Nguyễn Mai. Anh viết thạo, viết vững chắc các loại ký, truyện, bình luận, xã thuyết và tuỳ bút... Anh sử dụng được các thể loại thơ, đặc biệt thơ trào lộng.