ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 1-11-24 09:37:18
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Người con đất Viên An

Báo Cà Mau (CMO) Trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940, tại Cà Mau, nổi bật với sự kiện khởi nghĩa Hòn Khoai. Tham gia cuộc khởi nghĩa này có chàng trai Bông Văn Dĩa (Hai Dĩa), quê ở làng biển nằm gần chót Mũi Cà Mau. Ông là người lái ghe đưa lực lượng khởi nghĩa từ đất liền ra đảo và trao chỉ thị khởi nghĩa của Tỉnh uỷ Bạc Liêu cho thầy giáo Hiển, lúc đó đang bí mật ở trên đảo.

Do sự phối hợp không đồng loạt của các địa phương, cuộc khởi nghĩa rơi vào thế cô lập, lực lượng khởi nghĩa bị Pháp bắt giữ. Tám chiến sĩ trực tiếp khởi nghĩa, gồm: Phan Ngọc Hiển, Ðỗ Văn Sến, Nguyễn Văn Ðắc, Nguyễn Văn Cự, Ðỗ Văn Biên, Nguyễn Văn Cẩn, Ngô Kinh Luân, Nguyễn Văn Ðình, cùng hai đồng chí Lê Tồn Khuyên thuộc Chi bộ thị trấn Cà Mau và đồng chí Quách Văn Phẩm, Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, bị đem ra hành quyết tại Sân vận động thị trấn Cà Mau, sáng 12/7/1941. Bông Văn Dĩa bị kêu án chung thân và đày ra Côn Ðảo. Năm 1945, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã giải thoát ông khỏi lao tù, trở về hoạt động trong Xứ uỷ Nam Bộ.

Sau Hiệp định Genève năm 1954, ông được phân công ở lại miền Nam, về quê Rạch Gốc làm nhiệm vụ cất giữ vàng và vũ khí. Từ đầu năm 1958, ông bí mật đưa rước cán bộ và chuyển tài liệu đi các tỉnh bằng đường sông, cả đường biển, với vỏ bọc hợp pháp của một ngư dân.

Tháng 6/1961, trong lúc tham gia chuẩn bị thành lập Mặt trận Giải phóng tỉnh Cà Mau, Bông Văn Dĩa được Tỉnh uỷ giao nhiệm vụ tổ chức ghe thuyền và người bí mật vượt biển ra Bắc xin chi viện vũ khí.

Ngày 1/8/1961, ông cùng bảy đồng đội xuất phát cuộc vượt biển đầu tiên ra Bắc tại rạch Cái Mòi bằng chiếc ghe đánh cá trọng tải nhỏ, chỉ năm tấn. Thời điểm đó, toàn bộ vùng biển miền Nam nằm trong sự kiểm soát của quân đội Sài Gòn.

Việc lấy Vàm Lũng làm cửa đón tàu có trọng tải vài ngàn tấn vào ngay thời điểm triều cường là đề xuất cực kỳ quan trọng của Bông Văn Dĩa. Ðây là bất ngờ hoàn toàn với cả hải quân Mỹ và Sài Gòn, vì chúng đinh ninh Vàm Lũng chỉ là cửa cạn. Gần ba năm đầu, Vàm Lũng đón hàng chục tàu, nhận hơn ngàn tấn vũ khí mà địch không hề hay biết. Cho đến khi sự kiện Vũng Rô tháng 2/1965, đường vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam mới bị giặc phát hiện...

Tượng đài di tích lịch sử Bến Vàm Lũng tại thị trấn Rạch Gốc, huyện Ngọc Hiển. Ảnh: MINH TẤN

Ðại tá Khưu Ngọc Bảy, nguyên Trung đoàn trưởng Ðoàn 962, nhớ lại: “Sau nhiều ngày khảo sát thực tế và nhất trí với Khu uỷ Khu 9 phương án trình Trung ương, đêm 26/7/1962, Bông Văn Dĩa cùng năm đồng đội lên đường ra Bắc lần thứ hai, trực tiếp báo cáo với Tổng bí thư Lê Duẩn và Trung tướng Trần Văn Trà phương án đón tàu tại bến Cà Mau”.

Chấp nhận phương án đề xuất của Khu 9, Trung ương quyết định cho tàu Phương Ðông 1 đưa 30 tấn vũ khí đầu tiên vào Nam Bộ, do Bông Văn Dĩa làm Chính trị viên, Lê Văn Một làm Thuyền trưởng, cùng với 10 thuỷ thủ. Tàu xuất phát tại bến Ðồ Sơn đêm 11/10/1962 và đến 6 giờ sáng ngày 16/10/1962, tàu an toàn vào cửa Vàm Lũng, Rạch Gốc, Cà Mau. Liên tiếp các ngày sau đó, ba tàu chở vũ khí vào bến Vàm Lũng an toàn. Ðường Hồ Chí Minh trên biển từ đây chính thức được khai thông.

Sau khi tàu Phương Ðông 1 vào bến Cà Mau, Ðoàn 962 gấp rút được thành lập, Bông Văn Dĩa được phân công làm Ðoàn phó. Ðây là đơn vị đón nhận và phân phối vũ khí cho cả Nam Bộ, gồm các bến đón: Bà Rịa, Bến Tre, Trà Vinh và Cà Mau.

Không chỉ đón được tàu, tiếp nhận được vũ khí, trong suốt những năm tồn tại, đơn vị bến còn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hết sức khó khăn, đó là cất giữ, vận chuyển và phân phối một khối lượng vũ khí rất lớn đến các chiến trường khắp Nam Bộ, trong điều kiện địch phong toả gắt gao, chà đi quét lại khắp vùng rừng đước Năm Căn, nhằm kiểm soát toàn bộ mặt biển và mặt sông khu vực này.

Ðoàn 962 đã tổ chức các đơn vị chiến đấu tinh nhuệ để bảo vệ bến bãi, kho tàng, căn cứ, đường vận chuyển... nổi tiếng là các đơn vị săn tàu.

Sau sự kiện Vũng Rô, đường không còn bí mật nữa. Ðối phương cho triển khai ngay chiến dịch mang tên Market Time, phân công rõ ràng: Hải quân Sài Gòn tuần tiểu ven bờ, hải quân Mỹ (hạm đội Bảy) ngăn chặn ngoài khơi. Toàn bộ vùng ven biển miền Nam được địch tổ chức thành 9 khu vực chiến đấu và 5 trung tâm giám sát lớn...

Ta chuyển qua hoạt động theo phương thức mới: Chấp nhận đối mặt với sự ngăn chặn và săn đuổi, bằng phương thức đi tàu lớn hơn, tốc độ cao hơn, đi xa hơn ra hải phận quốc tế, tìm mọi cách đánh lạc hướng địch, chọn thời điểm bất ngờ nhất, với tốc độ cao nhất, luồn lách qua lưới canh tuần của tàu địch, đâm thẳng vào các bến. Phương thức này đem lại thành công đầu tiên từ chuyến tàu 42 vào được bến Vàm Lũng đêm 15/10/1965. Từ đây, giai đoạn mới của con đường trên biển Ðông lại bắt đầu.

Ðây là giai đoạn đem lại nhiều kết quả nhất, nhưng hy sinh và mất mát cũng cao nhất. Vì bí mật của con đường không còn nữa, chỉ còn yếu tố bất ngờ. Giai đoạn này, toàn bộ các chuyến tàu đều được cài sẵn những khối thuốc nổ hàng tấn, để khi cần, có thể điểm hoả, như tàu 165, nổ cách bờ Cà Mau hơn 50 hải lý, toàn bộ thuỷ thủ đoàn 18 người đều hy sinh. Hàng loạt các con tàu khác bị phát hiện với những cuộc hỗn chiến giáp lá cà trên biển, nhiều tàu phải phá huỷ, nhiều chiến sĩ hy sinh, bị địch bắt...

Năm 1967, Bông Văn Dĩa được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân giải phóng.

Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, người con của đất Viên An này còn có những thành tích rất đặc biệt: Hai lần được Xứ uỷ Nam Bộ phân công sang Thái Lan mua vũ khí và đưa bộ đội hải ngoại về nước. Chuyến đi đầu, ông cùng vợ là bà Nguyễn Thị Hoài cải trang làm một gia đình thương nhân sang Thái mua bán. Ðến Thái Lan, mặc dù bị bắt giam bốn tháng nhưng khi vừa ra tù, ông chở ngay chuyến vũ khí, máy in... đầu tiên về Năm Căn. Lần thứ hai, để kết hợp đưa bộ đội hải ngoại về nước, cấp trên quyết định tổ chức bằng đường bộ. Trên đường vận chuyển, ông cùng đơn vị phải chiến đấu hơn 10 trận để bảo toàn vũ khí và lực lượng.

Sau khi thống nhất đất nước không lâu, ông xin được nghỉ hưu, về sống tại quê hương Rạch Gốc với một chiếc tàu đánh cá. Ông mất ngày 30/5/1983, mộ phần tại đất nhà. Mảnh đất nhỏ và ngôi nhà đơn sơ giờ đây là địa chỉ lịch sử, điểm du lịch về nguồn ở vùng địa đầu cực Nam Tổ quốc.

Ðể tri ân những đóng góp đặc biệt của ông, tháng 7/2012, huyện Ngọc Hiển khánh thành Nhà tưởng niệm Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Bông Văn Dĩa trong khu quần thể tượng đài di tích Ðoàn tàu Không số, tại ấp Xẻo Mắm, xã Tân Ân. Công trình được xây dựng từ sự chỉ đạo và đóng góp của Ðảng bộ huyện Ngọc Hiển cùng với Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Tư lệnh Vùng 5 Hải quân, Lữ đoàn 125, Quân khu 9, Ban Liên lạc Ðoàn 962 và các nhà hảo tâm. Ðây là nơi trưng bày các hình ảnh, kỷ vật có liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Anh hùng Bông Văn Dĩa, để nhắc nhở thế hệ trẻ về truyền thống giữ nước hào hùng của cha ông.

Ông Hai Dĩa sinh ra và lớn lên ở xứ sở của hạt phù sa Ðất Mũi, yêu rừng biển quê mình. Kỳ diệu nhưng cũng thật giản dị như tự nhiên, khi đất nước cần, ông đi đánh giặc; hết giặc, ông lại trở về với rừng biển, để ngày ngày lại giong tàu ra khơi thả lưới, đêm đêm nhìn lên đỉnh đèn hòn...

Tháng 12/2022

 

Lê Vũ Hoàng - Nguyễn Trọng Tín

 

Những "ngôi nhà cách mạng"

Thời chiến tranh chống giặc ngoại xâm, Cà Mau là căn cứ địa đặc biệt quan trọng đối với phong trào cách mạng cả nước. Từ thành thị đến làng rừng có rất nhiều địa điểm ghi dấu ấn, nay là di tích lịch sử cách mạng.

Chuyện xin giống cây vú sữa trồng ở Phủ thờ Bác

Tại Phủ thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, xã Trí Lực, huyện Thới Bình (mọi người thường gọi thân thương là “Phủ thờ Bác xã Trí Lực”), hiện có cây vú sữa được nhân giống từ cây vú sữa của má Lê Thị Sảnh (Ấp 10, xã Trí Phải, huyện Thới Bình) gửi Tiểu đoàn 307 mang ra miền Bắc tặng Bác Hồ trên chuyến tàu tập kết năm 1954. Cây vú sữa này cũng đã cho trái từ mấy chục năm qua, khắc sâu thêm tình cảm thiêng liêng của người dân Cà Mau đối với Bác. Thế nhưng, chuyện xin cây vú sữa mang về trồng như thế nào và từ khi nào, cũng là thắc mắc của nhiều người.

Vụ thảm sát Cái Sắn qua lời kể của nhân chứng U100

Ông Phạm Văn Quang (Hai Quang), Chủ tịch Hội Khuyến học huyện Thới Bình, là người tâm huyết với công tác khuyến học, hầu như khóm, ấp nào trong huyện cũng có bước chân ông. Một hôm, ông phấn khởi điện cho tôi: “Chú biết có ông cụ này tuổi hơn 90, còn minh mẫn lắm, biết rất nhiều chuyện xưa của vùng đất Thới Bình, trong đó có vụ thảm sát ở Cái Sắn. Sắp xếp rồi chú đưa đi gặp cụ”.

Việt Nam trân trọng độc lập, phát triển bền vững

Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước quốc dân, đồng bào và toàn thế giới ngày 2/9/1945 đã khẳng định Việt Nam là một quốc gia tự do, độc lập. Ở đó người dân có quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc… Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…

Tự hào 79 mùa thu lịch sử

Cách đây 79 năm, với thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Ðộc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, ngày 2/9/1945 trở thành ngày Tết độc lập đầu tiên của Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh - thời đại của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước với ánh sáng chân lý của sự nghiệp cách mạng mà Bác Hồ và Ðảng ta soi đường, dẫn lối. Một mùa thu vạch ngang lịch sử, được lịch sử lựa chọn để đi vào bất tử.

Tri ân hai vị lãnh đạo nghĩa quân

Những ngày tháng Tám lịch sử, chúng tôi có dịp tháp tùng cùng Nhà báo Ðỗ Văn Nghiệp (Sáu Sơn), hiện là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Kể chuyện lịch sử (do Bảo tàng tỉnh thành lập) về thăm, thắp hương tại Khu tưởng niệm hai lãnh đạo nghĩa quân, Ðỗ Thừa Luông - Ðỗ Thừa Tự (toạ lạc tại ấp Bùng Binh, xã Hoà Thành, TP Cà Mau) - Di tích lịch sử cấp tỉnh.

Món quà nghĩa tình tri ân mẹ

Thiêng liêng gì bằng Tổ quốc và mẹ. Mẹ đã cống hiến tuổi xuân, tài sản lớn nhất là chồng, là con cho Tổ quốc. Bằng tấm lòng tôn kính, cảm phục, việc xuất bản quyển kỷ yếu "Bà mẹ Việt Nam anh hùng tỉnh Cà Mau” thể hiện trách nhiệm và là món quà mang nặng nghĩa tình của Ðảng bộ và Nhân dân tỉnh Cà Mau gửi đến các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) còn sống, thay nén tâm hương dâng lên những mẹ đã khuất.

Chuyện về liệt sĩ nằm lại vùng đất lửa

Cách đây 5 năm, trong chuyến về nguồn cùng Tỉnh đoàn Cà Mau, đó là lần thứ 3 tôi được đặt chân đến Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn (tỉnh Quảng Trị). Mang theo tấm lòng của người con miền Nam đến thắp nén tâm hương cho những vị anh hùng của Tổ quốc, như một sự tình cờ kỳ diệu, giữa hơn 10 ngàn ngôi mộ liệt sĩ nằm lại ở vùng đất lửa, đoàn chúng tôi bất ngờ tìm được một phần mộ đặc biệt. Ðó chính là nơi an nghỉ của Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Xinh, quê tại xã Tân Lộc, huyện Thới Bình.

Những địa chỉ thiêng liêng

Trong 2 cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, lớp lớp những người con Cà Mau lên đường đánh giặc, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Ðể đổi lấy ngày độc lập, chỉ trên quê hương Cà Mau đã có 17.678 liệt sĩ, 16.467 thương binh, 2.510 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gần 17 ngàn người đang hưởng trợ cấp hằng tháng.

Làm đẹp địa chỉ đỏ

Trải qua hai cuộc chiến tranh ác liệt, xương máu của lớp lớp thế hệ ông cha đã thấm đẫm trên từng tấc đất quê hương. Ðể tưởng nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ, tại các xã, thị trấn trong huyện Ngọc Hiển đều xây dựng các đài tưởng niệm, nhà bia ghi danh liệt sĩ. Những công trình này vừa thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, vừa góp phần giáo dục truyền thống cách mạng vẻ vang của dân tộc cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.