ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 14-11-24 10:56:01
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

Công tác chuẩn bị của Trung ương cho cuộc tập kết (*)

Báo Cà Mau Tháng 9/1954, Tổng Quân uỷ ra Chỉ thị số 123/CT-4 về việc đón tiếp cán bộ, đồng bào miền Nam tập kết ra miền Bắc, quân tình nguyện Việt Nam ở Lào về nước. Chỉ thị nêu rõ: “Việc bộ đội, cán bộ và đồng bào miền Nam ra Bắc cũng nhằm để thi hành đúng hiệp định đình chiến, đồng thời cũng để xây dụng lực lượng vũ trang hùng mạnh, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh chính trị, củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc. Vì vậy, việc đón tiếp bộ đội, cán bộ và đồng bào miền Nam ra miền Bắc tập kết có một ý nghĩa chính trị rất lớn”.

Tổng Bí thư Lê Duẩn gặp các anh hùng, chiến sĩ miền Nam tại Ðồ Sơn, Hải Phòng, năm 1973. Trong số này, nhiều người là HSMN. Ảnh tư liêu

Tổng Bí thư Lê Duẩn gặp các anh hùng, chiến sĩ miền Nam tại Ðồ Sơn, Hải Phòng, năm 1973. Trong số này, nhiều người là HSMN. Ảnh tư liệu

Với chiến thắng Ðiện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, quân và dân ta đã buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, Lào, Campuchia. Theo quy định của hiệp định, hai bên có thời gian 300 ngày (22/7/1954-17/5/1955) để chuyển quân tập kết ra Bắc, vào Nam (lấy ranh giới là vĩ tuyến 17); tiến hành trao trả tù binh, giải quyết các vấn đề sau chiến tranh.

Thực hiện quy định về chuyển quân tập kết ra Bắc, ngày 31/8/1954, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam ban hành chỉ thị “Về việc đón tiếp bộ đội, thương binh, một số cán bộ và đồng bào miền Nam ra Bắc”. Chỉ thị nêu rõ, đây là việc “cần phải làm thật chu đáo và có kết quả thật tốt”, bởi “việc đón tiếp, phân phối công tác, tìm nơi tạm ở và công ăn việc làm là rất trọng yếu, có ảnh hưởng và tác dụng chính trị rất lớn, không những đối với tinh thần, tư tưởng của những người ra ngoài này mà còn có ảnh hưởng rất lớn đối với tinh thần đồng bào miền Nam ở trong kia".

Các địa điểm được chọn đón đồng bào, chiến sĩ tập kết hết sức khẩn trương làm công tác chuẩn bị. Liên khu uỷ và Bộ Tư lệnh Liên khu IV tổ chức chỉ đạo các tỉnh lập “Phòng miền Nam”, đảm nhận công tác đón tiếp, sắp xếp cho đồng bào, chiến sĩ tập kết.

Ở các địa điểm chính như Sầm Sơn, Cửa Hội, các bộ phận quân nhu, vận tải luôn thường trực, phối hợp với lực lượng của Bộ Tổng Tư lệnh sẵn sàng làm công tác đón tiếp một cách chu đáo nhất. Sau 9 năm kháng chiến gian khổ, cơ sở vật chất bị tàn phá nặng nề, đời sống Nhân dân miền Bắc nói chung cũng như các địa điểm được chọn để đón đồng bào, chiến sĩ tập kết còn hết sức khó khăn. Nhưng Ðảng bộ, chính quyền và Nhân dân các địa phương đã dành những điều kiện tốt nhất để đón tiếp cán bộ, chiến sĩ, học sinh cùng nhiều gia đình cách mạng miền Nam tập kết.

Ðể có phương tiện di chuyển lực lượng lớn cán bộ, chiến sĩ và đồng bào từ miền Nam ra Bắc, Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam đã nhờ Liên Xô giúp đỡ. Phía bạn đã lập một uỷ ban hỗn hợp lo liệu việc thuê tàu, tổ chức chuyên chở. Công ty Vận tải biển Sovfracht (Liên Xô), được giao thực thi công việc này. Công ty lập phương án chọn các tàu hàng có tải trọng lớn, đang có mặt ở vùng Viễn Ðông để hoán cải chở người. Năm con tàu: Kilinski (Ba Lan), Arkhangelsk và Stavropol (Liên Xô), Sunny Queen và Sunny Prince (Na Uy) được chọn. Những tàu trên được đưa đến Nhà máy Ðóng tàu Quảng Châu (Trung Quốc) sửa chữa, cải tạo, để từ những chiếc tàu chở hàng chỉ có vài chục thuỷ thủ đoàn, được chuyển sang chở hàng ngàn người. Hầm tàu được cọ rửa sạch để chứa nước ngọt, thực phẩm. Các tầng, hầm boong được đóng sạp nhiều tầng để người nằm; làm thêm bếp, nhà vệ sinh...

Dự kiến sau khi ra đến miền Bắc, đồng bào, chiến sĩ miền Nam sẽ được học tập; sau đó lực lượng vũ trang sẽ được Bộ Tổng Tư lệnh tổ chức lại biên chế, quản lý theo chế độ quân nhân; anh em thương binh sẽ được điều trị, an dưỡng, hồi phục sức khoẻ tiếp tục phục vụ quân đội. Những người sức khoẻ không đảm bảo sẽ được đưa về chăm nuôi tại các xã; cán bộ, nhân viên kỹ thuật, công nhân được bố trí công tác. Với gia đình cán bộ và một số đồng bào trong diện tập kết sẽ được chính quyền và các đoàn thể giúp đỡ, đảm bảo nơi ăn, ở, tìm kiếm việc làm ổn định. Trung ương cũng yêu cầu tổ chức một cuộc tuyên truyền, giáo dục sâu rộng để  “cán bộ và Nhân dân nhận thấy việc đón tiếp và giúp đỡ này là nghĩa vụ và cũng là vinh dự... Cần có thái độ ân cần, săn sóc, giúp đỡ anh chị em miền Nam ra giải quyết mọi sự khó khăn, lo lắng, coi như anh chị em ruột thịt... Phải có thái độ đối với những người có công với Tổ quốc”.

Ðể tạo điều kiện học tập cho thiếu niên miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Ðảng đã chỉ thị Bộ Giáo dục thành lập Trường học sinh miền Nam, hình thành nên những mái trường nội trú, là nơi nuôi dưỡng, dạy dỗ, tạo nguồn cán bộ lâu dài cho đất nước. Trong điều kiện còn khó khăn nhưng cấp bộ đảng, chính quyền và bà con miền Bắc bảo đảm những điều kiện tốt nhất từ lương thực, thực phẩm, quần áo đến giáo viên giảng dạy, tạo nên mô hình giáo dục có một không hai và được đánh giá thành công trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc.

Tháng 10/1954, tại Chắc Băng (huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Bạc Liêu - nay là Cà Mau, Bạc Liêu), đại diện cho Trung ương, đồng chí Lê Duẩn triệu tập Hội nghị thảo luận những nhiệm vụ của Nam Bộ trong giai đoạn mới, thành lập Xứ uỷ Nam Bộ. Hội nghị cũng tiến hành bàn thảo công tác chuyển quân tập kết, trong đó quan trọng nhất là bố trí lực lượng tập kết ra miền Bắc và ở lại tiếp tục hoạt động ở miền Nam theo tinh thần “đi là thắng lợi, ở là vinh quang".

Theo quy định, tại Nam Bộ, sau 35 ngày, tính từ ngày 21/7/1954, đến 6 giờ ngày 26/8/1954, lực lượng tập kết ra miền Bắc phải chuyển quân vào 3 khu vực: Hàm Tân - Xuyên Mộc, Cao Lãnh - Ðồng Tháp Mười và Cà Mau. Cũng tính từ ngày 21/7/1954, thời gian tập kết tại Cà Mau là 200 ngày (đến 6 giờ ngày 10/2/1955).

Tại Phân liên khu miền Tây, lực lượng tập kết tập trung về khu 200 ngày Cà Mau với tổng cộng 29.138 người, trong đó có 17.344 quân nhân thuộc các đơn vị chủ lực miền Tây, được biên chế thành 4 trung đoàn: Trung đoàn 1 (Tiểu đoàn chủ lực 307, bộ đội địa phương và du kích các tỉnh Vĩnh Trà, Bến Tre); Trung đoàn 2 (Tiểu đoàn 410, bộ đội địa phương và du kích các tỉnh Cần Thơ, Long Châu Hà); Trung đoàn 3 (Tiểu đoàn 308, bộ đội địa phương và du kích các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu); Trung đoàn 4 (các cơ quan tham mưu, chính trị, cung cấp, quân nhu, các đơn vị binh chủng). Lực lượng còn lại gồm công nhân quân giới, công nhân viên các cơ quan Dân - Chính - Ðảng, số du kích và các cán bộ xã không thể ở lại địa phương được biên chế thành từng khối theo mỗi tỉnh. Cùng với đó có 986 thương binh, bệnh binh. Trong lực lượng tập kết còn có 1.038 người của cách mạng Campuchia (6 cán bộ cấp Trung ương, 16 cán bộ cấp miền, tỉnh, 30 cán bộ cấp huyện, 12 sinh viên đại học và trung học, cán bộ cơ sở và chiến sĩ chiếm tới 80% tổng số; trong đó có 128 đồng chí là đảng viên Ðảng Nhân dân, 130 thiếu niên; 17 phụ nữ, 5 gia đình cán bộ).

Ngày 25/9/1954, tàu Arkhangelsk thực hiện chuyến chuyển quân tập kết đầu tiên, chở đồng bào, chiến sĩ từ Hàm Tân rẽ sóng tiến vào cửa Lạch Hới trong niềm hân hoan chào đón của Nhân dân Sầm Sơn (Thanh Hoá). Ðến hết tháng 5/1955, Sầm Sơn trở thành địa điểm đón tiếp chính các chuyến tàu đưa lực lượng tập kết ra miền Bắc, có 45 chuyến tàu cập bến tại đây, với 79.996 người. Với những tàu lớn, phải đậu ngoài xa, Ðảng bộ, chính quyền Sầm Sơn đã huy động Nhân dân dùng thuyền đánh cá đưa đồng bào vào bờ, có những chuyến phải trung chuyển mất 2 ngày mới xong.

Ngày 8/2/1955, chuyến tàu cuối cùng chở quân ở Nam Bộ từ Cà Mau ra miền Bắc rời sông Ông Ðốc, kết thúc 200 ngày tập kết tại Cà Mau. Ngày 16/5/1955, chuyến cuối cùng rời cảng Quy Nhơn, kết thúc đợt chuyển quân tập kết.

Theo thống kê chưa đầy đủ, tàu Kilinski (Ba Lan) do thuyền trưởng R. Cielewicz chỉ huy, từ tháng 10/1954 đến tháng 5/1955, đã thực hiện 27 chuyến Nam - Bắc, vận chuyển 85 ngàn người, 3.500 vũ khí các loại, 250 tấn đạn dược; tàu Arkhangelsk (Liên Xô) do thuyền trưởng là Giôtốp chỉ huy đã thực hiện 12 chuyến Nam - Bắc trong khoảng thời gian từ tháng 9/1954 đến tháng 2/1955, chuyên chở hơn 30 ngàn người và hơn 1.300 tấn hàng.

Cuộc chuyển quân từ miền Nam ra tập kết ở miền Bắc, là cuộc đấu tranh tư tưởng, tuy âm thầm nhưng đầy quyết liệt của quân và dân miền Nam. Trong niềm vui, tin tưởng vào việc sau 2 năm kể từ ngày Hiệp định Giơ-ne-vơ có hiệu lực, hiệp thương tổng tuyển cử sẽ được tiến hành để thống nhất đất nước, còn xen lẫn nỗi băn khoăn, lo lắng. Mặc dù vậy, dưới sự lãnh đạo của các cấp bộ Ðảng, chính quyền và đoàn thể, việc chuyển cán bộ, lực lượng vũ trang miền Nam ra tập kết ở miền Bắc được tiến hành bảo đảm đúng tiến trình, thời gian, chu đáo, chặt chẽ, thể hiện sự nghiêm chỉnh và tinh thần đoàn kết Nam - Bắc một nhà, vì lợi ích dân tộc, quốc gia trên hết.

(*) Tổng hợp từ sách “300 ngày đấu tranh, thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ (22/7/1954-17/5/1955)” do Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam biên soạn, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2019.

 

Thanh Trúc tổng hợp

 

Công bố Di tích lịch sử cấp tỉnh “Bia kỷ niệm Bác Hồ với cây vú sữa miền Nam”

Sáng 12/11, UBND tỉnh tổ chức Lễ khánh thành và công bố xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh đối với di tích “Bia kỷ niệm Bác Hồ với cây vú sữa miền Nam” tại Ấp 10 xã Trí Phải, huyện Thới Bình.

Công tác chuẩn bị của Trung ương cho cuộc tập kết (*)

Tháng 9/1954, Tổng Quân uỷ ra Chỉ thị số 123/CT-4 về việc đón tiếp cán bộ, đồng bào miền Nam tập kết ra miền Bắc, quân tình nguyện Việt Nam ở Lào về nước. Chỉ thị nêu rõ: “Việc bộ đội, cán bộ và đồng bào miền Nam ra Bắc cũng nhằm để thi hành đúng hiệp định đình chiến, đồng thời cũng để xây dụng lực lượng vũ trang hùng mạnh, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh chính trị, củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc. Vì vậy, việc đón tiếp bộ đội, cán bộ và đồng bào miền Nam ra miền Bắc tập kết có một ý nghĩa chính trị rất lớn”.

Tiếp thu thị trấn Cà Mau

Chúng tôi tiến vào thị trấn Cà Mau lúc 2 giờ chiều ngày 23/8/1954. Hôm qua, giặc Pháp đã rút toàn bộ lực lượng (kể cả nguỵ quyền) về Bạc Liêu, trong khi chúng chưa bàn giao chính quyền với ta. Bởi vậy, đồng bào tại đây phải sống trọn một đêm chờ đợi.

Tri ân vùng đất gắn liền sự kiện lịch sử cách mạng

Hướng đến kỷ niệm 70 năm sự kiện tập kết ra Bắc (1954-2024), sáng 9/11, thông qua vận động, Đoàn từ thiện thuộc Ban Liên lạc đồng hương Cà Mau - Bạc Liêu về nguồn khám bệnh, cấp thuốc miễn phí và tặng quà cho người dân có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn xã Trí Lực, Trí Phải (huyện Thới Bình) và thị trấn Sông Đốc (huyện Trần Văn Thời).

CÁC HOẠT ĐỘNG KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954 - 2024)

Người tạo dấu ấn

Những ngày lập đông 1954, gió chướng thổi mạnh, không khí lạnh từ biển Ðông ùa vào cửa sông Ông Ðốc, cũng là lúc cán bộ, chiến sĩ, con em các tỉnh Nam Bộ, trong đó có Nguyễn Ngọc Cung, xuống tàu Kilinski của Ba Lan đi tập kết ra Bắc, lên bến Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Không lâu sau đó, trên đất Bắc, Nguyễn Ngọc Cung trở thành thành viên sáng lập: Hội Sân khấu Việt Nam; Hội Nhà văn Việt Nam; Hội Ðiện ảnh Việt Nam. Ông sáng tác kịch bản phim "Biển động" vào cuối năm 1957.

Cà Mau - Trước, trong và sau tập kết

Chúng ta từng biết Cà Mau không phải là vùng đất hoang sơ “khỉ ho cò gáy”, dân trí thấp kém như một vài “học giả” không sát thực tế đã từng nói. Cũng như không phải nơi tận cùng “hải giác thiên nhai” để cho mãnh thú và tội đồ từ các nơi đến ở với “lính trốn và trốn lính” theo một vài cuốn sách nào đó, làm lem ố những dòng lịch sử chói ngời của vùng đất thiêng, bao phen làm điểm tựa cho lịch sử cả miền đồng bằng Nam Bộ.

Tư liệu quý từ ghi chép của người tập kết

Sự kiện tập kết ra Bắc diễn ra đã 70 năm, những yếu tố về lịch sử, chủ trương, đường lối chiến lược của Đảng, Bác Hồ thì sách báo đã đề cập. Tuy vậy, lớp hậu thế muốn tìm hiểu chi tiết vấn đề lại rất ít thông tin. Trong quá trình gặp gỡ, tiếp cận tài liệu từ nhân chứng (còn lại không nhiều), từ thân nhân, từ Bảo tàng tỉnh, chúng tôi bắt gặp những trang nhật ký, ghi chép, hồi ức, qua đó giúp phần nào hình dung lại một giai đoạn lịch sử hết sức đặc biệt này.

Ngày ấy chúng tôi đi

Chiến tranh kết thúc sau 21 năm, tôi kịp về sống giữa lòng mẹ như những ngày thơ bé, kịp quấn trên đầu chiếc khăn tang khi mẹ qua đời. Tôi cũng kịp nhận ra niềm hạnh phúc của đứa con được sống bên cạnh mẹ.

Cây vú sữa miền Nam - Một biểu tượng tấm lòng

Cây vú sữa miền Nam là một huyền sử bật nổi giữa muôn vàn câu chuyện về tình cảm miền Nam đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh kính yêu. Ðó là một sự thật hồn nhiên của cuộc sống bảo vệ Tổ quốc, nhưng nó kỳ diệu là câu chuyện diễn ra trong lúc ta chuyển quân tập kết.