ĐT: 0939.923988
Chủ nhật, 1-6-25 07:36:06
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Xúc cảm vẹn nguyên

Báo Cà Mau Từ những ngày đầu tháng 11, cao điểm các hoạt động Kỷ niệm 70 năm Sự kiện tập kết ra Bắc (1954-2024) được diễn ra khắp nơi trong tỉnh Cà Mau. Ðối với những người trong cuộc - chứng nhân của dấu mốc lịch sử ấy lại ùa về bao cảm xúc bồi hồi, nôn nao ngày họp mặt để sống lại hồi ức cách nay 70 năm, ngày lên tàu rời quê hương với niềm tin mãnh liệt vào con đường cách mạng mà Ðảng và Bác Hồ đã chọn.

Ra đi với niềm tin, khát vọng thống nhất

Những ngày này, ông Dương Thanh Toàn (Phường 5, TP Cà Mau) lại mang chiếc hộp đựng các huân, huy chương ra lau chùi, rồi sắp xếp ngay ngắn theo thứ tự thời gian, để chuẩn bị đeo lên ngực áo ngày họp mặt trọng đại Kỷ niệm 70 năm Sự kiện tập kết ra Bắc, tại thị trấn Sông Ðốc. Nâng niu báu vật đời binh nghiệp, ông Toàn tự hào kể, ông được 4 vị Chủ tịch nước: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tôn Ðức Thắng, Trường Chinh và Trần Ðức Lương ký tặng huân, huy chương; Ðại tướng Võ Nguyên Giáp ký tặng Huân chương Chiến thắng hạng Ba; đồng chí Phạm Văn Bạch, Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến hành chánh Nam Bộ, ký tặng Huy hiệu Kháng chiến Nam Bộ.

Miền ký ức thời thanh xuân hiện về qua mái đầu bạc trắng và giọng nói run run. Quê ông Toàn ở Mương Ðiều, huyện Ðầm Dơi, 17 tuổi xung phong vào bộ đội, nhận nhiệm vụ sửa chữa vũ khí. Năm 22 tuổi, ông được lệnh tập kết ra Bắc ở bến Chắc Băng (xã Trí Phải, huyện Thới Bình), để ra tàu Liên Xô đang neo đậu cửa sông Cần Thơ, bắt đầu một chuyến đi dài. “Cán bộ, chiến sĩ, học sinh lên tàu đều được quán triệt đưa 2 ngón tay vẫy chào tạm biệt người thân, đồng bào, với ý nghĩa hẹn 2 năm trở về, ai ngờ mãi tới 21 năm”, ông Toàn nhắc nhớ.

Ông Dương Thanh Toàn (người thứ 2 từ trái sang) chia sẻ về những lần được nhận huân chương, huy chương trong cuộc đời binh nghiệp của mình.

Ông Dương Thanh Toàn (người thứ 2 từ trái sang) chia sẻ về những lần được nhận huân chương, huy chương trong cuộc đời binh nghiệp của mình.

Mỗi năm, cứ đến ngày 12/11 - ngày ông Toàn đặt chân lên con tàu tập kết, ông đều tập hợp các con, cháu lại để kể về những ngày ông sinh sống, học tập và công tác trên đất Bắc, được bà con nơi đây đùm bọc, yêu thương để ông nguôi ngoai nỗi nhớ nhà, nhớ quê. Nơi đây cũng là mảnh đất duyên lành để ông Toàn kết vợ chồng cùng cô gái Bắc, có với nhau 5 mặt con.

Ban đầu ông Toàn được học cải cách ruộng đất, nhận nhiệm vụ ở Quân giới Z63 đóng trong rừng tỉnh Tuyên Quang, sau đó đến Công trường 12 để xây dựng Nhà máy Quân giới Z1 tỉnh Yên Bái, ông Toàn được đề bạt làm Tổ trưởng sản xuất, rồi Phó quản đốc Phân xưởng Cơ điện. Ông Toàn nhớ lại, lúc bấy giờ miền Bắc là hậu phương lớn, mọi hoạt động đều hướng về miền Nam thân yêu, ngày làm việc bằng hai, trắng đêm chế tạo vũ khí để viện trợ cho chiến trường miền Nam.

Sau ngày giải phóng, ông Toàn trở về Nam, tiếp quản Lục quân Công xưởng ở Gò Vấp, và được thăm lại quê nhà sau hơn 20 năm xa cách.

Ở tuổi 92, cuộc đời ông Toàn đã đi qua bao thăng trầm thời cuộc, song có lẽ dấu ấn đậm sâu vẫn là ngày lên tàu rời Nam và thời gian hoạt động trên đất Bắc với niềm tin, khát vọng thống nhất đất nước. Tất cả được dệt nên qua bài thơ “Người đi - người ở” do ông Toàn sáng tác vào năm 2004, nhân Kỷ niệm 50 năm Sự kiện tập kết ra Bắc, như một hồi ký đời mình: “Không chỉ hai năm mà hai mươi năm/Bến Hải dòng sông tạm cách ngăn/Niềm tin, ý chí không tàn lụi/Làm việc bằng hai đã góp phần.../Xúc cảm trùng phùng khôn kể xiết/Cao cả nghĩa tình phải nặng mang”.

Rèn luyện để trở về cống hiến

Năm 1954, sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Cà Mau là điểm tập kết lớn nhất Nam Bộ với 200 ngày và Sông Ðốc là bến tiễn đưa cán bộ, chiến sĩ cách mạng và học sinh miền Nam ra Bắc. Trong dòng người náo nức lên đường, có những cô bé, cậu bé chỉ hơn 10 tuổi phải rời xa vòng tay gia đình để học tập, rèn luyện trên đất Bắc, sau này trở về quê hương Cà Mau cống hiến.

Ông Phạm Hữu Liêm, nguyên Giám đốc Sở Lâm nghiệp tỉnh, hồi nhớ: “Lúc đó tôi 13 tuổi, đang học lớp 1, chưa hiểu nhiều về ý nghĩa của chuyến tập kết. Dù tôi là con trai một trong nhà nhưng cha tôi, lúc bấy giờ là Chủ tịch xã Tân Hưng (huyện Cái Nước) vẫn nhất quyết cho đi. Qua bao khó khăn, vất vả, tôi vẫn nhớ mãi lời cha dặn phải ráng học để sau này phụng sự cho quê hương, đất nước”.

Còn vợ ông Liêm, bà Lê Thị Liễu (quê tỉnh Quảng Ngãi), năm 1954 cũng tập kết ra Bắc theo diện học sinh miền Nam, khi ấy bà chỉ 10 tuổi. Họ học cùng nhau tại Học viện Nông Lâm Hà Nội và kết hôn năm 1970, sinh được 2 người con ở miền Bắc. Năm 1973, khi chiến tranh còn diễn ra quyết liệt, ông Liêm vượt Trường Sơn, xuyên rừng miền Ðông về Cà Mau. Ông kể, lúc đó chủ yếu đi bộ, ngày nghỉ, đêm luồn rừng theo hướng dẫn của giao liên. Từ Tây Ninh về Cà Mau mất 3 tháng 20 ngày.

Ông Phạm Hữu Liêm và bà Lê Thị Liễu xem lại hình ảnh bạn bè những lần họp lớp học sinh miền Nam.

Ông Phạm Hữu Liêm và bà Lê Thị Liễu xem lại hình ảnh bạn bè những lần họp lớp học sinh miền Nam.

Kỹ sư Phạm Hữu Liêm và Kỹ sư Lê Thị Liễu là người khởi xướng ý tưởng xây dựng công trình Lâm viên 19/5, với ý tưởng một Cà Mau thu nhỏ, để phục vụ tham quan, nghiên cứu khoa học. Ngôi nhà sàn của Bác Hồ trong Khu Tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện nay cũng xuất phát từ ý tưởng và sự chịu khó, quyết tâm của đôi vợ chồng kỹ sư này. Khi nhiều lần bôn ba ra Bắc, vào Trung mời thợ, xin bản thiết kế, chọn cây mới có được kiến trúc nguyên bản như nhà sàn của Bác ở Thủ đô Hà Nội.

Mỗi năm cứ đến kỷ niệm sự kiện tập kết ra Bắc, vợ chồng ông Liêm, bà Liễu lại mang ra những tấm ảnh kỷ niệm họp lớp, 2 chiếc nón kè thường đội đi học ngày xưa, rồi điện thoại thăm hỏi sức khoẻ, điều kiện cuộc sống từng người. Hơn hết là nhắc nhớ về những nghĩa tình người dân miền Bắc đã chăm sóc, cưu mang để những cán bộ, học sinh miền Nam như ông, bà được học tập, trưởng thành.

Dù 70 năm trôi qua nhưng ký ức về chuyến tàu tập kết ra Bắc, những ngày sinh sống, chiến đấu, lao động, học tập, cùng với tình quân, dân Bắc - Nam vẫn còn vẹn nguyên trong tâm trí những cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam. Họ là những nhân chứng sống, là tấm gương để thế hệ trẻ tiếp nối niềm tự hào, ra sức cống hiến, dựng xây quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp.

Nhà ông Phạm Hữu Liêm và bà Lê Thị Liễu ở ấp Tắc Thủ, xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình, những ngày qua đông khách tới lui. Như chúng tôi, ai nấy mong muốn được nghe câu chuyện tập kết dạt dào cảm xúc, được nhìn thấy những hiện vật năm xưa để hiểu hơn về sự hy sinh của cha ông đi trước và tầm nhìn chiến lược, sự lãnh đạo sáng suốt của Ðảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một giai đoạn lịch sử nhiều biến động của đất nước, đồng thời là minh chứng vững chắc về tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, sự thống nhất, tình cảm Nam - Bắc sắt son mãi mãi không thể nào chia cắt.

Căn nhà của ông Liêm và bà Liễu được phủ xanh cây cảnh và nuôi các loại chim, cá, tạo môi trường thân thiện với thiên nhiên.

Ông Phạm Hữu Liêm xúc động: “Mấy ngày qua xem trên báo, đài thấy Cụm tượng đài Chuyến tàu tập kết ra Bắc ở Sông Ðốc hoàn thành và địa điểm tập kết ra Bắc sẽ được xếp hạng Di tích Quốc gia, ký ức 70 năm hiện về mồn một. Tôi như thấy hình ảnh Nhân dân bơi xuồng đưa cán bộ, chiến sĩ, học sinh lên tàu, vẫy tay chào hẹn ngày thống nhất non sông”.

 

 

Quyên Thư

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.