Thời kháng chiến chống Pháp, vùng Miệt Thứ thuộc huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá. Ðến năm 1964, vùng đất này thuộc hai huyện: An Biên và Vĩnh Thuận. Giờ đây, Miệt Thứ là tên gọi quen thuộc chỉ vùng đất rộng trải dài các huyện: An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận và U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.
- Niềm vui ở vùng biên Tân Hồng
- Phát triển nguồn nhân lực người dân tộc Khmer
- An ninh nguồn nước đe doạ đồng bằng sông Cửu Long
Qua những địa danh trên vùng đất miền Tây, thường bắt gặp đâu đó những dòng thơ, điệu nhạc in vào lòng người - như một thứ đặc sản. Lần này, trên vùng Miệt Thứ cũng vậy - nơi được nhiều người biết đến qua bài hát “Em về miệt thứ” của Nhạc sĩ Hà Phương. Chiến tranh đã lùi xa nửa thế kỷ, vùng đất hoang vu, tang thương bởi bom đạn nay chuyển mình mạnh mẽ.
Miệt Thứ là tên gọi ghép “Miệt” và “Thứ”. “Miệt” chỉ xứ sở, vùng đất xa xôi, còn “Thứ” là số đếm. Toàn vùng có 10 con rạch, xuất phát từ sông Cái Lớn (Kiên Giang) tới huyện U Minh (Cà Mau), một thời gian dài được biết đến là vùng quê nghèo ven biển Tây; đất rừng hoang hoá ngập mặn, thưa dân.
Tuyến Quốc lộ 63 dẫn vào trung tâm huyện An Biên và cả vùng Miệt Thứ.
Theo ông Diệp Hoàng Du, nguyên Phó trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Kiên Giang: “Nơi đây trước kia dân cư phân bố theo các xóm, mỗi xóm cách nhau bởi con rạch. Rạch ở đây dùng để rửa phèn, mặn, chia nước từ sông Cái Lớn ra biển Tây. Ngày nay, hạ tầng giao thông phát triển, nhiều cầu được xây đặt tên theo tên rạch, tên sông. Các dòng kênh đặt tên theo Thứ rồi lấy đó làm tên cụm dân cư, ở Miệt Thứ còn có nhiều kênh thuỷ lợi mới đào gọi là xẻo, như: Xẻo Xu, Xẻo Nhàu, Xẻo Bướm... Các cây cầu bắc qua cũng có cùng tên gọi”.
Do đặc điểm phân bố dân cư khác biệt, các cụm dân cư đông đúc nhất xứ này nằm ven các xẻo, nơi giao nhau giữa những dòng kênh hình thành nên chợ, như: chợ Thứ Ba, Thứ Bảy... đến chợ Thứ Mười Một. Nhiều lão nông vùng Miệt Thứ kể vui, nơi này thời trước xa xôi, cách trở, nghèo khó nên cô gái theo chồng về Miệt Thứ mang tâm sự buồn bã, như lời bài hát “Em về miệt Thứ”: “Ðêm đêm ra đứng hàng ba/Trông về quê mẹ lệ sa buồn buồn/À ơi bông bần rụng trắng bờ sông/Lấy chồng xa xứ khó mong ngày về/Sương khuya ướt đẫm giàn bầu/Em về Miệt Thứ bỏ sầu cho ai?”.
Về Miệt Thứ, chúng tôi ghé thị trấn Thứ Mười Một (huyện An Minh) ngay mùa thu hoạch tôm càng xanh - loài thuỷ sản nhiều năm mang lại no ấm cho người dân. Cách chợ Thứ Mười Một chừng 5 km, vào tận cánh đồng tôm đang thu hoạch, rôm rả tiếng cười nói. Họ là hàng xóm, đến vần công thu hoạch, phân loại. Ðằng xa, ánh lên khoé mắt cùng nụ cười rạng rỡ chào khách của vợ chồng ông Nguyễn Hoàng Phi (62 tuổi).
Tôm càng xanh, loài thuỷ sản chủ lực của vùng Miệt Thứ.
Khệ nệ thùng tôm đầy, ông Phi khề khà: “Nuôi tôm vất vả lúc thu hoạch nhưng vui lắm, khoẻ hơn trồng lúa”. Vụ này, 5 ha nuôi tôm của ông thu được hơn 1,2 tấn, bỏ túi 130 triệu đồng. Ngoài vụ tôm càng xanh, còn thu lợi từ tôm sú, tôm thẻ, cua và cá đồng. Nhẩm tính, năm 2023, mảnh đất này mang về hơn 400 triệu đồng. “Từ con tôm, tôi nuôi 3 đứa con học đại học và đều có việc làm ở huyện An Minh”, ông Phi kể như khoe.
Ngồi vắt chân trên ghế, nhấp ngụm trà đặc quánh, lão điền Nguyễn Văn Lúa (85 tuổi) cười hiền: “Người dân ở đây có cuộc sống tốt hẳn là nhờ nuôi tôm, cua”.
Chỉ tay về cánh đồng mênh mông trước mặt, ông Lúa nói tiếp: “Trước năm 1985, toàn khu vực này là vùng rừng, không được khai thác. Ðể có gạo ăn, chúng tôi phải trồng lúa ở bờ Ðông kênh xáng Xẻo Rô. Mỗi năm chỉ 1 vụ, thu hoạch tầm 10 giạ/công. Do đó, hầu như nhà nào cũng thiếu trước hụt sau. Mùa hạn, cá đồng gom về vô kể, nhưng dội chợ, bán chẳng ai mua. Thèm thịt heo, nhưng không người bán. Chỉ chờ dịp Tết hoặc đám, có nhà mần heo cả xóm cùng nhau chia, “ăn trước trả sau”. Không phải trả bằng tiền mà tới mùa đong lúa (1 giạ lúa 1 kg thịt), hoặc gặt 1 công lúa trừ 1 kg thịt”.
Sau những năm 1990, Ðảng bộ, chính quyền vùng Miệt Thứ chỉ đạo người dân khai phá vùng đất hoang vu để trồng lúa mùa, dần dần phát triển lúa thuần nông 2 vụ. Người dân còn học cách chuyển đổi từ 2 vụ lúa kém hiệu quả (do thường xuyên bị nhiễm phèn, mặn) sang nuôi tôm kết hợp.
Tôm càng xanh, loài thuỷ sản chủ lực của vùng Miệt Thứ.
“Năm 1991, tôi về đây lập nghiệp, được cấp 20 công đất. Lúc đó ở tỉnh Bạc Liêu đã nuôi tôm, nên khi về đây, tôi bắt đầu đắp bờ, thả giống. 6 năm liên tiếp, nhà tôi trúng đậm. Nhờ vậy mà cuộc sống khấm khá”, lão nông Nguyễn Hoàng Lựu, ngụ xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Thuận, nhớ lại.
Có tiền, ông Lựu mua thêm đất, đến năm 1997, ông có trong tay 200 công đất. Cũng năm đó, ông Lựu nuôi tôm trúng hơn 500 triệu đồng, xây căn nhà trị giá 100 cây vàng. Như ông Lựu, người dân vùng Miệt Thứ nhờ “con tôm ôm cây lúa”, cần mẫn lao động, đến nay, đời sống đều nâng lên. Hạ tầng điện - đường - trường - trạm giờ không còn là nỗi lo.
Nông dân huyện An Minh thu hoạch lúa trên đất nuôi tôm.
Tuyến Quốc lộ 63 huyết mạch và Ðường hành lang ven biển phía Nam liên kết các huyện trong vùng; công trình cầu và cống Cái Bé - Cái Lớn xoá cảnh luỵ phà, giúp ngăn mặn, giữ ngọt, mở hướng phát triển vững chắc cho toàn vùng.
Ông Nguyễn Văn Phỉ, Chủ tịch UBND huyện An Minh, vui mừng: “Cuối năm 2022, thu nhập bình quân đầu người của huyện đạt hơn 56 triệu đồng”. Còn ông Nguyễn Công Trận, Bí thư, Chủ tịch UBND huyện An Biên, thông tin: “Hộ nghèo toàn huyện chỉ còn dưới 2,06%”. Là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, nhưng xa trung tâm tỉnh, thế mạnh vẫn là nông nghiệp. Bên cạnh tranh thủ các nguồn lực, kêu gọi đầu tư cơ sở hạ tầng, các địa phương vùng Miệt Thứ đặc biệt xem con tôm, cây lúa là chủ lực, nên tập trung phát triển chất lượng, sạch, năng suất cao, bền vững.
Dọc theo kênh xáng Xẻo Rô không còn nhà lá xập xệ, mà thay bằng những dãy nhà kiên cố. Các chợ: Thứ Ba, Thứ Bảy, Thứ Mười Một trở nên sầm uất. “Ở đây giờ không thiếu thứ gì. Ngay chợ Thứ Mười Một có tới 8 tiệm vàng. Người dân trúng tôm, một là ra chợ mua vàng, hai là mua thêm đất hoặc gửi ngân hàng lấy lãi nuôi con. Miệt Thứ nay khác xưa, không còn tâm trạng buồn, ngược lại có người mong được gả về”, lão điền Nguyễn Văn Lúa cười giòn.
Riêng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vùng Miệt Thứ có trên 15.200 lượt thanh niên lên đường tòng quân, 30 ngàn lượt người dân tham gia đấu tranh trực diện với địch. Quân và dân vùng Miệt Thứ thực hiện 1.652 trận đánh lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 3.700 tên Mỹ - nguỵ, đánh chìm và cháy 23 tàu quân sự, bắn rơi 48 máy bay... Chiến tranh kết thúc, vùng Miệt Thứ có gần 5 ngàn liệt sĩ, 1.892 thương bệnh binh, trên 3 ngàn quần chúng tử nạn và thương tật vì chiến tranh.
Phong Phú - Quốc Trinh