ĐT: 0939.923988
Thứ sáu, 6-6-25 03:04:04
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Anh hùng phi công, Liệt sĩ Nguyễn Văn Bảy (B) - Những điều ít biết - Bài cuối: Gia đình ở đâu, nơi đó là quê hương

Báo Cà Mau Nguyễn Văn Bảy (B) nhiều lần tâm sự với người bạn tên Ðỗ Khắc Hùng (cùng tập kết ra Bắc ở bến Sông Ðốc, cùng học chung cấp 1 và 2 tại các trường học sinh miền Nam) rằng, cha mẹ ông đều đi kháng chiến. Cha nói tiếng Bắc, mẹ nói tiếng không biết vùng nào, còn anh chị em ông thì nói tiếng Nam. Không biết gốc tích, nên với ông, sinh ra ở đâu, gia đình ở đâu thì coi nơi đó là quê hương (và ông đã khai trong lý lịch nhập học là quê xã Hưng Mỹ, huyện Trần Văn Thời).

Duyên sâu nặng với Cà Mau

Anh hùng phi công, Liệt sĩ Nguyễn Văn Bảy (B), sinh ngày 9/5/1943, tại xã Hưng Mỹ, huyện Trần Văn Thời (nay Hưng Mỹ thuộc huyện Cái Nước - PV). Cuối năm 1954 tập kết ra Bắc. Năm 1965, khi học xong năm nhất tại Khoa Cơ khí khai thác thuỷ sản, Trường Ðại học Nông nghiệp Hà Nội, thì có giấy gọi nhập ngũ và được tuyển chọn đi Liên Xô học lái máy bay. Ðến tháng 3/1968, học xong, ông trở về Việt Nam huấn luyện bay và được biên chế vào Ðại đội 4, Trung đoàn 923, Sư đoàn 371, Không quân. Cấp bậc thiếu uý. Vào Ðảng tháng 11/1966.

Cha là Nguyễn Sưởng, tham gia cách mạng năm 1927. Chức vụ cao nhất: Trưởng ban Ấn loát Phòng Chính trị Phân Liên khu Tây Nam Bộ. Hy sinh trong trận đánh quân Pháp nhảy dù ở Rạch Ráng (Cà Mau) năm 1952.

Mẹ là Nguyễn Thị Lư, tham gia cách mạng năm 1940; phụ trách quân trang của Phòng Hậu cần Phân Liên khu Tây Nam Bộ. Tập kết ra Bắc năm 1954. Ðược Nhà nước truy tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng.

Anh hùng phi công Nguyễn Văn Bảy (B) thời niên thiếu (đứng bìa trái) chụp ảnh cùng gia đình. (Ảnh gia đình cung cấp)

Sau khi cung cấp vắn tắt lý lịch của em mình, ông Nguyễn Anh Sơn, cho biết, cha ông gốc Hà Nội, từng tham gia tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội (tiền thân Ðảng Cộng sản Việt Nam). Bị giặc Pháp lùng bắt, năm 1936, cụ bí mật đưa vợ con vào Sài Gòn hoạt động. Năm 1938, lại bí mật xuống Cà Mau. Cụ rất giỏi kỹ thuật, tiếng Pháp và chữ Nho, được tổ chức đưa vào làm việc tại nhà máy đèn của chính quyền Pháp ở Cà Mau.

Năm 1940, bị mật thám ráo riết truy bắt, cụ đưa vợ con tản cư về vùng sâu (thuộc huyện Cái Nước ngày nay), còn cụ trở ra Cà Mau tiếp tục hoạt động bí mật. Sau đó đưa gia đình trở lại Cà Mau. Khoảng cuối năm 1946, thì đưa gia đình xuống vùng căn cứ rừng đước Năm Căn.

Hồi hoạt động ở Sài Gòn, cụ Nguyễn Sưởng làm việc trong nhà in của ông Tú tài Liêu (chợ Tân Ðịnh). Năm 1946, khi vào vùng căn cứ, cụ đã móc nối và được ông Tú tài Liêu hiến 1 nhà in cho Ban Ấn loát Phân Liên khu Tây Nam Bộ.

“Chuyện gốc tích gia đình, mãi sau này, khi làm gia phả, đi tầm mới tận tường. Chứ lúc đó vì điều kiện kháng chiến, các con 6-7 tuổi là cha mẹ gửi vô Trại Thiếu nhi thuộc Sở Thương binh Nam Bộ để được nuôi dạy và học hành; lớn hơn chút thì được bố trí đi làm những công việc phù hợp, chúng tôi ít gần cha mẹ nên cũng không biết được”, ông Sơn phân trần.

Vì cha mẹ công tác một nơi, anh em ông Sơn mỗi người một nơi nên lúc đi tập kết, mẹ ông đưa 2 con nhỏ cùng đi, 4 anh chị em ông cũng đi, nhưng không ai gặp ai, cũng không có tin tức gì. Mãi năm 1964, khi người anh thứ Năm (là ông Nguyễn Năm) đi học ở Liên Xô về, lên Ban Thống nhất Trung ương lục tìm từng danh sách, gia đình ông mới gặp lại nhau. Do bấy giờ mỗi người học một chỗ, về sau lại do điều kiện công tác, nên anh chị em ông chỉ gặp mặt được vài lần.

Năm 1972, khi Anh hùng phi công Nguyễn Văn Bảy (B) hy sinh, thì ông Sơn đã vượt Trường Sơn về Nam chiến đấu, không hề hay biết. Vậy là, tuy anh em ruột nhưng không hiểu nhiều về nhau. Ðó là điều mà anh chị em trong gia đình thấy bùi ngùi, xót xa, tiếc nuối.

Cũng vì vậy mà ông Sơn và ông Nguyễn Năm cố gắng cất công tìm hiểu, thu thập thông tin về Nguyễn Văn Bảy (B), lưu lại trong quyển sổ trên, để phần nào khắc hoạ chân dung về người em thương quý, người anh hùng của đất nước, đứa con hãnh diện của gia đình, dòng tộc và coi quyển sổ như báu vật.

Ông Nguyễn Anh Sơn, là một trong những thành viên của gia đình tích cực đi tìm hiểu, thu thập thông tin, tài liệu về người em mình là Anh hùng phi công, Liệt sĩ Nguyễn Văn Bảy (B).

Sau ngày thống nhất đất nước, ông Sơn về công tác, lập gia đình và sinh sống ở Cà Mau cho đến nay. Ông bảo: “Chúng tôi sinh ra ở Cà Mau, tuổi thơ cũng gắn bó với Cà Mau, nên trong tiềm thức, Cà Mau đã là quê hương của mình”.

Ông Nguyễn Năm công tác ngành dầu khí nên ở Sài Gòn và rước mẹ ông về chăm sóc. Tuy vậy, trước khi mất, mẹ ông, tức Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Lư, trăng trối đưa bà về Cà Mau an táng. “Chúng tôi đã làm theo tâm nguyện mẹ, hoả thiêu và đưa tro cốt bà về an táng tại Cà Mau. Hiện mộ mẹ tôi ở Nghĩa trang Từ trần của tỉnh”, ông Sơn cho biết.

Cha ông, cụ Nguyễn Sưởng, về sau cũng được bốc hài cốt đưa về yên nghỉ tại Nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh.

Ðối với mộ phần Anh hùng phi công, Liệt sĩ Nguyễn Văn Bảy (B), năm 1976, ông Nguyễn Năm có chuyến ra Hà Nội công tác, vào thăm mộ em thì mộ đã được cải táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Quảng Xương, Thanh Hoá.

Năm 2002, theo tâm nguyện của gia đình, với sự giúp đỡ của đồng đội và Quân chủng Phòng không - Không quân, hài cốt ông được đưa về an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh Cà Mau, cạnh người cha thân yêu và cạnh Nghĩa trang Từ trần, nơi có mộ mẹ ông.

Vậy là, Cà Mau đã thật sự là quê hương, nơi Anh hùng phi công, Liệt sĩ Nguyễn Văn Bảy (B) sinh ra, lớn lên và giờ đây được yên nghỉ bên cạnh những người thân yêu của mình.

Tôi tò mò hỏi về đời tư, ông Sơn bùi ngùi: “Nghe những người bạn nói, Bảy (B) chưa có người yêu. Nhưng năm 2017, có một người phụ nữ ngoài Bắc, qua các mối quan hệ, đã đến Cà Mau, ghé thăm gia đình và xin được viếng mộ Bảy (B). Sau khi thắp nhang mộ Bảy (B) cũng như mộ ông, bà cụ, cô xin phép được quay lại mộ Bảy (B). Cô chắp tay và nói gì đó, tôi đứng ngoài nghe không rõ. Chỉ nghe được loáng thoáng: “Những gì anh dặn, em đã làm tròn...”. Nước mắt chảy ràn rụa, cô cứ để mặc... Trước tình cảnh như thế, tôi cũng không tiện hỏi gì thêm”.

Ông Sơn cho biết thêm, bà có gia đình, có 2 con và chồng đã mất.

Quỹ khuyến học Nguyễn Văn Bảy, sự tiếp nối, tri ân...

Năm 1994, tin Liệt sĩ Nguyễn Văn Bảy (B) được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, đã làm nức lòng tất cả các thành viên trong đại gia đình. Trong khoảnh khắc đầy ắp niềm tự hào và vinh dự ấy, gia đình đã bàn bạc, phải làm điều gì đó ý nghĩa từ số tiền thưởng này (3 triệu đồng). Cuối cùng gia đình thống nhất, sẽ vận động thêm từ gia tộc, bạn bè, đồng đội của ông để lập “Quỹ Khuyến học Nguyễn Văn Bảy (B)”, hỗ trợ học sinh nghèo hiếu học.

Quỹ Khuyến học Nguyễn Văn Bảy (B) hỗ trợ cho nhiều nơi, trong đó dành phần ưu ái cho Cà Mau, coi như sự tri ân với quê hương này.

Sau hơn 14 năm dành dụm, tích góp, “Quỹ Khuyến học Nguyễn Văn Bảy (B)” chính thức hoạt động từ năm học 2008-2009. Tại Cà Mau, đối tượng nhận học bổng được xét chọn chủ yếu là con cháu nữ pháo binh năm xưa, bởi xét thấy đây là đối tượng khá đông nhưng đa phần đời sống rất khó khăn.

“Quỹ khuyến học hoạt động đến năm 2021 thì tạm dừng. Do ảnh hưởng dịch Covid-19, các doanh nghiệp mà quỹ gửi tiền gặp khó khăn, làm ăn không sinh lợi. Chỉ là tạm dừng, khi nào mọi việc thuận lợi thì duy trì tiếp”, ông Sơn cho biết.

Như vậy, qua 13 năm hoạt động, quỹ đã hỗ trợ được cho 240 lượt học sinh nghèo hiếu học, với tổng số tiền trên 617 triệu đồng. Việc hỗ trợ được thực hiện từ học sinh tiểu học tới học xong đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Bên cạnh hỗ trợ học bổng, quỹ còn hỗ trợ tiền tàu xe, chi phí cho các cháu đi lại ôn và thi đại học, cao đẳng, xin việc làm; hỗ trợ các phương tiện đi lại như xe đạp; hỗ trợ tập, sách, dụng cụ học tập...; thưởng tiền khi các em được giấy khen; hỗ trợ học nghề...

Qua 13 năm, có trên 10 em được hỗ trợ đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng, học nghề. Trong đó, một số em học nghề ngắn hạn, được hỗ trợ chi phí học hành, ăn ở và học phí trên 10 triệu đồng/em.

“Nhiều học sinh nhờ nguồn quỹ hỗ trợ mà đã học hành đến nơi đến chốn, có việc làm, sống có ích cho gia đình và xã hội”, là thành viên đồng sáng lập quỹ và đảm nhận xét chọn, cấp phát quỹ tại Cà Mau, ông Sơn vui mừng bày tỏ./.

 

Trang Thăm

 

"Chiếc nôi chung" thương nhớ, tự hào - Bài cuối: “Quê chúng ta Cà Mau”

Những ngày này, tỉnh Cà Mau và tỉnh Bạc Liêu đang tập trung khẩn trương cho công tác chuẩn bị hợp nhất thành tỉnh Cà Mau mới - một phiên bản được nâng cấp toàn diện, đầy kỳ vọng của Minh Hải xưa. Cà Mau - Bạc Liêu lại chung một mái nhà, một chiếc nôi với trọn vẹn những nghĩa tình, những khát vọng phát triển lớn lao, với sức vóc mạnh mẽ, thế và lực vững vàng ở địa đầu cực Nam Tổ quốc.

"Chiếc nôi chung" thương nhớ, tự hào

Khi chủ trương hợp nhất tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu thành tỉnh Cà Mau được công bố và thông tin rộng rãi, có một điều kỳ lạ đã diễn ra. Không có sự nuối tiếc, không hề âu lo, mà trái lại, đó là sự hào hứng, phấn chấn và đồng thuận cao độ của Nhân dân 2 tỉnh. Vậy là Cà Mau - Bạc Liêu lại về chung một mái nhà, chung một khát vọng, cộng hưởng và nhân lên sức mạnh, niềm tin để cùng nhau xây dựng vùng đất phía địa đầu cực Nam Tổ quốc bừng sáng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

"Chiếc nôi chung" thương nhớ, tự hào - Bài 2: Chặng đường 20 năm lịch sử

Tỉnh Minh Hải tồn tại trong 20 năm, từ 1976 đến hết năm 1996, vượt qua nhiều thách thức, trở ngại, kể cả những thời khắc hết sức gian khó để hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh lịch sử với những thành tựu hết sức to lớn, đặt nền tảng vững chắc cho đà ổn định, phát triển của 2 tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu, về sau này.

Cà Mau - Ðịa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài cuối: Bừng sáng vùng đất địa đầu cực Nam Tổ quốc

Cà Mau hôm nay đổi mới, phát triển từng ngày. Những cán bộ lão thành cách mạng, những bậc cao niên ở Cà Mau mà chúng tôi có dịp gặp, đã trải qua bom đạn chiến tranh, trải qua những ngày tháng Cà Mau còn đầy khó khăn, tất cả đều nói rằng, Cà Mau mình bây giờ đã phát triển nhiều lắm, đời sống Nhân dân đã sung túc hơn trước bội phần. Từ vùng đất hoang vu, nê địa; từ những đau thương, mất mát lớn lao trong kháng chiến; đến nay, Cà Mau đã vươn mình đi lên bằng sức vóc mới, thế và lực mới, để chặng đường phát triển tương lai sẽ làm bừng sáng vùng đất địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.

Cà Mau - địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 4: Vùng đất của những sản vật vang danh

Dù lên rừng hay xuống biển, Cà Mau đều sẵn có những đặc sản trứ danh. Nếu chỉ nhắc đến đại khái, nhiều người sẽ chưa thoả dạ hoặc lòng còn hoài nghi, thắc mắc. Sự trù phú của thiên nhiên hoà quyện với quá trình lao động siêng năng, bền bĩ, đúc kết kinh nghiệm và sự sáng tạo tài hoa của lớp lớp con người Cà Mau đã kết tụ nên giá trị và sức sống lâu bền của những sản vật đặc trưng ở vùng đất mới.

Lưu Hữu Phước – Nhạc sĩ tài danh đất Tây Đô

Hai ba thế hệ người Việt Nam hát những ca khúc của nhạc sĩ tài danh Lưu Hữu Phước. Không có cuộc đời nào, tâm hồn nào trên đất nước Việt Nam thân yêu thế kỷ vệ quốc anh hùng mà không được Lưu Hữu Phước giục giã.

Ngày giải phóng Cà Mau

Cà Mau - địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 3: Bức tranh văn hoá đa sắc

Dù ở vùng đất mới, gốc gác khác biệt, song khi về tới Cà Mau, thế hệ tiền nhân đã sớm ý thức về nguồn cội, quần tụ và cố kết với nhau bằng sợi chỉ đỏ chảy xuyên suốt của nền văn hoá dân tộc Việt Nam bốn ngàn năm: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi/Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”.

Cà Mau - Địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc - Bài 2: Con người Cà Mau - Nét duyên xứ sở

Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng: “Con người là chủ thể văn hoá, cách ứng xử của con người với chính mình, với thiên nhiên và các mối quan hệ xã hội định hình nên đặc điểm và tính cách của nền văn hoá ấy”. Ở vùng đất mới Cà Mau, nếu không nói về con người Cà Mau, tính cách và cốt cách của con người Cà Mau thì quả thật là một điều thiếu sót lớn. Hồn cốt quê hương, khí phách của ông cha là nơi hậu thế soi chiếu vào đó để nhận diện được chính mình và khơi mở những chặng đường tương lai của mảnh đất này.

Cà Mau - Địa đầu cực Nam thiêng liêng của Tổ quốc

Khi Báo Cà Mau đăng loạt ghi chép pha chút hơi hướng khảo cứu này, tỉnh Cà Mau đang hừng hực khí thế, với thế và lực mới vững vàng hoà vào dòng chảy thời đại cùng cả dân tộc, đất nước Việt Nam tiến bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển phồn thịnh, giàu mạnh, hạnh phúc.