ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 26-6-25 12:29:05
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nghề "săn“ chem chép ở bãi bồi

Báo Cà Mau (CMO) Về chợ Vàm Đầm, hỏi anh Tư chem chép là ai cũng biết. Đó là biệt danh mà người ta đặt cho cái nghề bắt chem chép hơn 20 năm nay của vợ chồng anh Tư Ngọc (anh Phan Văn Ngọc và chị Nguyễn Thị Thuý, ấp Hiệp Dư, xã Nguyễn Huân, huyện Đầm Dơi). Từng dắt díu nhau lên Bình Dương, Đồng Nai làm công nhân gần 5 năm trời, cuộc sống gò bó, chen chúc, nhất là chuyện học hành của 3 đứa con gái có nguy cơ bị dở dang, vợ chồng anh quyết định trở về quê tiếp tục mưu sinh bằng nghề bắt chem chép.

Đều đặn mỗi ngày, tờ mờ sáng vợ chồng anh Tư Ngọc chuẩn bị vội bữa sáng bằng mì gói hay cơm chiên tỏi, rồi sách vở, quần áo cho 3 đứa con gái đi học. Xong xuôi cũng là lúc nước bắt đầu rút dần, để lộ ra bãi bồi phù sa ven theo những hàng mắm, đước. Anh chị chuẩn bị dụng cụ xô, vá, xẻng, đèo nhau trên chiếc xe chỉ còn trơ lại bộ “xương sườn”, qua chuyến phà ngã năm mới đến điểm “săn” chem chép. Đến nơi, anh Ngọc nói: “Khi thấy hang chem chép mình dùng xẻng đào từ từ xuống. Khi nào thấy con chem chép nhô lên thì dùng tay bắt, nếu không khéo, đào mạnh làm bể vỏ chem chép sẽ bán không được”.

Chem chép ưa sống ven theo những vùng bãi bồi có bùn, mỗi hang có 1 con, phải dùng xẻng đào để bắt chúng.

Nước lớn, nước ròng, làm nghề này sợ nhất là bị vỏ hàu, miểng chai đâm trúng chân. Mỗi lần như vậy phải nghỉ mấy ngày. Anh Ngọc kể: “Khoảng 10 năm trước, dân nghèo ở xứ Vàm Đầm này đa số làm nghề bắt chem chép, có khi vài chục người. Đi vỏ lãi cả đoàn, hùn nhau đổ xăng hoặc vựa thu mua hỗ trợ tiền xăng cho đi bắt. Từ khi có nhiều công ty mở ra, người ta dần dần kéo nhau đi làm công nhân, giờ chỉ còn vài người ở lại làm nghề này. Bây giờ chỉ có vợ chồng tôi đi bắt, vòng vòng từ đây lên Tân Tiến. Chạy đỡ chiếc xe cà tàng này khoảng vài chục ngàn đồng tiền xăng, chứ đi xuồng máy thì tốn gần trăm ngàn đồng”.  

Chị Thuý nói vui: “Ổng hồi xưa là sư phụ dạy tui nghề bắt chem chép đó”. Anh Ngọc đáp lại: “Giờ bả đào chem chép còn hay hơn tui. Nhưng có cái là đi đào từ sáng tới chiều mà không chịu uống nước, sợ lạnh run. Vì mới sanh xong hơn 1 tháng là bả đòi đi mần rồi”. Đúng là hơn buổi lội dưới bùn lầy nhưng anh chị không ai ăn cơm hay uống nước, khi nghỉ tay ngồi núp bóng mát dưới cây mắm, cây me một lát rồi tiếp tục đi bắt, đến khi nước lớn mới về.

Thịt chem chép rất ngon, có vị ngọt, từ lâu được xem là sản vật của vùng đất bãi bồi Vàm Đầm.

Theo anh Ngọc, đào chem chép có thể làm quanh năm, nhưng số lượng càng ngày càng ít đi: “Trước đây, khoảng 1 thước vuông thôi là đào được mười mấy kí-lô-gam, còn giờ có khi đi cả ngày, lội rã chân được chừng 10 kg là nhiều rồi. Do còn một số người làm nghề này, nên hễ tới kênh nào thấy dấu họ đi đào trước thì mình đi kênh khác. Bây giờ chem chép có giá lắm, 40.000-50.000 đồng/kg, chứ thời tui mới biết đi bắt chem chép chỉ có 2.000-4.000 đồng/kg. Vợ chồng làm một ngày cũng được hơn 300.000 đồng”.

Làm nghề này không dư dả nhưng nếu tằn tiện cũng đủ trang trải cuộc sống hàng ngày và lo cho 3 đứa con gái nhỏ đến trường. “Trước đây, vợ chồng đi Đồng Nai, Bình Dương làm công nhân cũng được 9-10 triệu đồng/tháng/2 người. Chi phí sinh hoạt và học hành của con cao quá nên chỉ cho 2 đứa đi học, còn 1 đứa nghỉ. Suy nghĩ lại, về quê thì cũng được Nhà nước, địa phương hỗ trợ một phần học phí cho các con”.

Thịt chem chép rất ngon, có vị ngọt, từ lâu được xem là sản vật của vùng bãi bồi, ven biển và trở thành đặc sản đắt tiền của các quán ăn, nhà hàng, có thể chế biến thành nhiều món, như chem chép nướng mỡ hành, xào sả ớt, nấu cháo…. Còn đối với những người như vợ chồng anh Tư Ngọc thì chem chép là nồi cơm, là quần áo, sách vở cho con đến trường./.

Thảo Mơ

Liên kết hữu ích

Lồng ghép bảo tồn đa dạng sinh học để giảm thiểu áp lực

Thảo luận về việc lồng ghép giảm thiểu tác động đối với đa dạng sinh học trong thực hiện các giải pháp quản lý và các tiêu chuẩn quốc tế đã áp dụng trong mô hình; đề xuất, khuyến nghị các giải pháp quản lý có liên quan, các tiêu chuẩn quốc tế phù hợp với mô hình tôm - rừng Việt Nam” là những nội dung quan trọng trong khuôn khổ Hội thảo “Khuyến nghị giải pháp thúc đẩy chuỗi tôm - rừng bền vững tại Cà Mau theo hướng chứng nhận quốc tế và bảo tồn đa dạng sinh học”, diễn ra vào ngày 19/6. Hội thảo do Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Cà Mau phối hợp với Cục Thuỷ sản và Kiểm ngư tổ chức. 

Mạnh, giàu từ biển

Nghị quyết Ðại hội Ðại biểu Ðảng bộ tỉnh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2020-2025, xác định: “Chú trọng phát triển kinh tế biển, du lịch, năng lượng tái tạo nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của tỉnh, tạo bứt phá phát triển kinh tế nhanh, bền vững”. Ðến nay, mục tiêu vươn ra biển, làm giàu từ biển của Cà Mau đang dần được hiện thực hoá.

Niềm tin về nông nghiệp sạch

Tham quan mô hình trồng rau an toàn của nhiều hộ dân ở xã Trí Lực, huyện Thới Bình, những luống rau xanh mướt đang phát triển, ít ai biết rằng, để có được sự thay đổi tích cực ấy là cả hành trình đổi mới cách nghĩ, cách làm của nông dân, chuyển từ tập quán canh tác truyền thống sang mạnh dạn áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất.

Tăng tốc giải ngân vốn đầu tư công

Kế hoạch đầu tư công năm 2025 của tỉnh được triển khai trong bối cảnh cả nước bước vào cuộc cách mạng mạnh mẽ với 2 mục tiêu lớn, đó là thực hiện chủ trương sắp xếp, tổ chức lại bộ máy của hệ thống chính trị và thực hiện mục tiêu tăng trưởng GRDP năm 2025 đạt từ 8% trở lên, hướng đến tăng trưởng hai con số trong giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, ghi nhận đến thời điểm này, kết quả giải ngân của tỉnh còn khá chậm, cần giải pháp thúc đẩy mạnh mẽ tiến độ.

Tín hiệu tích cực từ dự án khôi phục nguồn lợi cá đồng

Xác định ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất là “chìa khoá” để thực hiện thành công các mục tiêu tái cơ cấu nông nghiệp trên địa bàn, những năm gần đây, tỉnh Cà Mau tích cực triển khai nhiều mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp phù hợp điều kiện tự nhiên địa phương. Một trong những điểm sáng là Dự án “Xây dựng mô hình ứng dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá đồng tại tỉnh Cà Mau”.

Khởi động dự án đồng quản lý bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản tại Trần Văn Thời

Sáng 12/6, tại huyện Trần Văn Thời, Hội Thuỷ sản tỉnh Cà Mau phối hợp với Chương trình tài trợ các dự án nhỏ của Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF SGP) - Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tổ chức lễ khởi động Dự án “Xây dựng mô hình đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản trên địa bàn xã Khánh Bình Tây và Khánh Bình Tây Bắc”.

Màu xuống ruộng, dân đổi đời

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Chi bộ Ấp 5, xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời triển khai mô hình “Dân vận khéo” đưa hoa màu xuống ruộng sau vụ lúa. Từ những bờ ruộng bỏ trống ngày nào, giờ đây đã phủ màu xanh của vùng sản xuất trù phú, góp phần nâng cao đời sống người dân, tạo diện mạo mới cho nông thôn.

Tận dụng thế mạnh phát triển công nghiệp nông thôn

Thời gian qua, lĩnh vực công nghiệp thực phẩm, chế biến đóng góp quan trọng cho giá trị của ngành công nghiệp tỉnh Cà Mau. Tại huyện Trần Văn Thời, vùng đất có lợi thế với đa dạng hệ sinh thái mặn, ngọt, lợ, tạo ra các sản phẩm đặc sản như: khô cá bổi, chuối khô, các loại thuỷ, hải sản biển, lúa gạo, mật ong, các sản phẩm từ cây, trái địa phương, dược liệu... Nhờ tận dụng lợi thế địa phương và sự đồng hành của hoạt động khuyến công đã tạo động lực thúc đẩy công nghiệp nông thôn phát triển mạnh mẽ.

Hỗ trợ chị em làm kinh tế

Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) huyện Ðầm Dơi luôn đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, hướng về cơ sở, triển khai hiệu quả các phong trào thi đua và công tác hội, giúp hội viên phụ nữ phát triển kinh tế thông qua nhiều mô hình sản xuất.

Cánh tay nối dài đưa vốn chính sách đến dân

Những năm qua, các tổ tiết kiệm và vay vốn (TK&VV) tại tỉnh Cà Mau khẳng định vai trò là cầu nối quan trọng, góp phần đưa nguồn vốn tín dụng chính sách đến tận tay người dân, đặc biệt là hộ nghèo, cận nghèo và đối tượng chính sách khác. Với tổng số 2.644 tổ TK&VV đang hoạt động, mạng lưới này thực sự là “cánh tay nối dài” giúp chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước lan toả sâu rộng đến từng địa bàn, từng hộ dân.