ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 3-6-25 22:29:11
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nữ anh hùng hai mộ

Báo Cà Mau (CMO) “Đơn vị thanh niên xung phong (TNXP) tuyến 1C quân số hơn 800, trong đó hai phần ba là nữ và có tới hơn 30 chị tên Hồng. Ðể tránh lẫn lộn, chúng tôi gọi biệt danh. Hồng Láng cũng là biệt danh, chứ tên gia đình đặt là Võ Thị Hồng. Nhưng ở đơn vị phải gọi Võ Thị Hồng Láng thì mọi người mới biết”, ông Tô Minh Thi, nguyên Chính trị viên Ðại đội TNXP Nguyễn Việt Khái II, nguyên Liên đội phó Liên đội I TNXP tuyến 1C (hiện ngụ tại Khóm 1, Phường 8, TP Cà Mau) phân trần. Và khi nhắc về Anh hùng LLVTND Võ Thị Hồng, ông rất tự hào, hết lời khen ngợi.

Khí tiết anh hùng

Vào buổi chiều ngày 25/3/1968, khoảng 1 đại đội TNXP tuyến 1C từ biên giới Kiên Giang đi qua Campuchia vận chuyển hàng chiến lược về Việt Nam. Khi băng qua đồi cát, cách kênh Vĩnh Tế khoảng 500 m thì bị phục kích. Họ đã chiến đấu dũng cảm để vượt khỏi vòng vây địch. Khi đó Tám Hoa và Hồng Láng (Ðại đội Nguyễn Việt Khái II, Cà Mau) bị thương. Bình tĩnh, mưu trí, Tám Hoa nép vào đám tràm bị bom na-pan đốt cháy, chị lấy tro tràm phủ lên khắp mình để nguỵ trang. Còn Hồng Láng bị thương nặng, gãy tay mặt và chân trái, trên mình thêm mấy vết thương, chị bất tỉnh, nên bọn chúng phát hiện được.

Bọn giặc yêu cầu người dân dùng xe bò kéo chị về đồn Vĩnh Ðiều (Kiên Giang). Tại đây, chúng từ dụ dỗ, mua chuộc đến tra tấn dã man hòng khai thác chị. Nhưng bọn chúng hoàn toàn thất vọng bởi chị không hé răng khai báo nửa lời. Và chị đã đập đầu tự tử để giữ tròn khí tiết. Năm đó chị tròn 18 tuổi.

Cái chết kiên cường của liệt sĩ Hồng Láng thì đã rõ, nhưng đằng sau đó, còn nhiều câu chuyện mà người dân Vĩnh Ðiều truyền tai nhau về sự kiên cường, dũng cảm của chị.

Bà Hồ Thanh Hồng (Hồng Cối), một đồng đội thân thiết, cùng quê với chị (ấp Ðất Cháy, xã Phong Lạc, huyện Trần Văn Thời) kể: “Người dân ở đó nói lại, khi Hồng Láng bị bọn chúng đưa lên xe bò, bắt mấy ông già (ngay người cơ sở mình) đẩy đi, dọc đường, thấy cổ đau rên quá, mấy ông hồi hộp, lo sợ lắm. Sợ về đồn bị bọn nó tra tấn, chịu không nổi rồi khai ra là chết hết. Nhưng rồi Hồng Láng cắn răng chịu đau đớn, chấp nhận chọn cái chết để bảo vệ tuyến đường, bảo vệ hàng, bảo vệ đồng đội, bảo vệ cơ sở mình, nên bà con vô cùng thán phục”.

Chân dung Anh hùng LLVTND Võ Thị Hồng. (Ảnh chụp từ sách “Lịch sử xã Phong Lạc”).

Còn ông Cao Long Phiêu, một đồng đội khác của chị, trong một bài viết (sách "1C con đường huyền thoại") thì kể rằng: Ông Tám Xà Bam, một cơ sở ta ở đó kể, khi đưa Hồng Láng về, tên trung tá tâm lý chiến kêu tên y tá chích thuốc cầm máu và thuốc khoẻ cho chị để mong khai thác. Tên y tá chưa kịp rút hết ống thuốc thì Hồng Láng đã tống cho hắn một đạp vào hạ bộ, kim tiêm và thuốc văng tung toé, hắn chỉ biết ôm bụng kêu trời. Ðau, nhưng hắn vẫn vô cùng nể phục.

Cũng theo ông Cao Long Phiêu, người dân ở Tà Êm, Vĩnh Ðiều gọi Hồng Láng là “nữ thần”, vì nói chị linh lắm. Họ thường đốt nhang đèn, đặt lễ vật van vái, cầu nguyện chị phù hộ mỗi khi gặp điều trắc trở.

Ông Tô Minh Thi trầm ngâm: “Sau này, nghe một số anh em cơ sở ta báo cáo rằng, khi bọn chúng yêu cầu khai báo, Hồng Láng kêu mang giấy viết ra, bọn chúng mừng quá mang tới ngay. Khi đó có một tên Mỹ, Hồng Láng không những không ghi gì mà còn nhào tới cắn cổ tên Mỹ, mắng chửi mấy thằng sĩ quan và đám lính, trước khi đập đầu tự tử. Hồng Láng hy sinh vào khoảng 18 giờ 30 phút, mọi việc diễn ra từ lúc bị bắt tới lúc mất chỉ trong vòng hơn 1 tiếng đồng hồ. Chuyện cắn cổ thằng Mỹ thì không biết có đúng trăm phần trăm không, nhưng chắc chắn một điều là Hồng Láng không hề khai báo một lời nào. Vì vậy mà cơ sở ta từ kho tàng, bến bãi, căn cứ… vẫn an toàn tới ngày giải phóng”.

Ông Minh Thi còn hết sức trân trọng khi nói về cấp dưới của mình: “Hồng Láng lúc hy sinh là tiểu đội phó, sau đó được thăng lên tiểu đội trưởng. Quá trình công tác, chiến đấu, Hồng Láng luôn gan dạ, dũng cảm, kiên cường. Với anh em đồng đội thì dịu dàng, vui tươi, sẵn sàng hy sinh mọi quyền lợi riêng tư vì tổ chức, tập thể. Với công việc thì lanh lẹ, không nhiệm vụ nào giao phó mà nao núng, bê tha, không hoàn thành”.

Gia đình liệt sĩ Hồng Láng có 10 anh chị em. Chị là con thứ Tư. Ngoài chị, người anh thứ Hai, chị thứ Ba, người em thứ Năm, thứ Sáu đều tham gia cách mạng. Cha chị mất từ thời trẻ, hiện người mẹ và anh Hai, chị Ba và các người em thứ Bảy, Tám, Chín cũng đã mất.

Ký ức một lần nữa được khơi gợi lại từ những người trong gia đình. Bà Võ Thị Huệ (em thứ Năm, ngụ ấp Tân Tiến, xã Phong Lạc, huyện Trần Văn Thời) không nén được xúc động nghẹn ngào khi nhắc về người chị kế cận: “Hai chị em hồi đó thương nhau lắm. Trước khi đi, hai chị em ra chòi, chế nói, thôi để chế đi rồi năm sau chế về rước em. Vậy mà chế đi rồi biệt tăm luôn…”. Lắng dòng xúc động, bà Huệ tiếp: “Lúc đó chúng tôi xé cái khăn ka-tê ra làm hai, mỗi đứa giữ một phần làm kỷ niệm. Ðâu kịp thêu thùa gì, chỉ luồn mấy cọng chỉ xanh đỏ vô 4 góc khăn. Nghe mấy anh chị đơn vị nói, chế luôn mang cái khăn đó theo bên mình… Chế đi mấy tháng có viết thư về. Trong thư chế nói chế nhớ em dữ lắm, nhớ gia đình dữ lắm. Chế kể ở đó toàn rừng núi, chỗ chế ở là khu rừng tràm, không có nhà dân. Chế nói khổ lắm, ăn uống cũng vất vả...”. Dòng ký ức vẫn miên man: “Hồi chế đi, chế đã là cô giáo dạy ở trường làng. Lúc đó có đợt mộ TNXP, chế xin đăng ký. Má cản, nói con gái mà đi gì, nhưng chế vẫn quyết đi...”.

Bà Huệ cũng cho biết thêm: “Chế rất gan lì, ở nhà hồi nhỏ chế làm trật chuyện gì, má hay anh Hai kêu cúi đánh là cúi. Ðánh không khóc. Mà chế siêng năng, giỏi giang, học cũng giỏi, uy tín với bà con lối xóm lắm. Còn dạy học thì học trò nghe răm rắp. Tôi ở nhà chỉ nhỏ hơn chế 1 tuổi, mà làm sai chuyện gì chế bắt cúi là không dám cãi. Mấy đứa cháu con anh Hai sai là chế phạt vẽ vòng bắt đứng, tụi nó riu ríu nghe theo... Chế đi được hơn 1 năm thì hy sinh. Nghe nói, chuyến đó đúng ra chế Thu đi, mà chế đi thế...”.

Còn người em thứ Sáu là Võ Văn Cường (ấp Tân Phong, xã Phong Ðiền, huyện Trần Văn Thời) cũng thừa nhận: “Chế rất nóng tính và gan lì. Ở nhà chế giỏi giang, cực khổ lắm, chuyện trong nhà, làm ruộng, cấy lúa gì cũng giỏi”. Ông Cường cũng cho biết, trước đây mẹ và người em trai Út thờ liệt sĩ Võ Thị Hồng, nhưng sau khi bà mất và người em đi nơi khác làm ăn nên ông đảm nhận việc thờ cúng.

Năm 2008, đồng đội, quê hương và gia đình vinh dự, tự hào đón nhận tin vui: Liệt sĩ Võ Thị Hồng được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

Gian nan tìm hài cốt

“Ðơn vị nhiều Hồng, nghe nói chế hay sửa soạn, nên đặt Hồng Láng, là bóng láng”, ông Võ Văn Nhanh (hiện ở ấp Rạch Lăng, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời), người em thứ Mười của Anh hùng LLVTND Võ Thị Hồng, giải thích biệt danh “Hồng Láng”.

Chuyện về hài cốt liệt sĩ Võ Thị Hồng, ông Nhanh cho biết: Năm 2002, gia đình nhận được tin đồng đội đã tìm được hài cốt chị. Khi đó gia đình có đi cùng qua Kiên Giang nhận về an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Trần Văn Thời.

“Lúc đó mừng vui, cả nhà ai cũng khóc hết nước mắt. Huyện làm lễ truy điệu cũng lớn lắm. Hàng năm, cứ 24 Tết là gia đình tới viếng mộ chế. Nghĩa trang lúc đó rất đông, người dập dìu, tổ chức ca hát cả đêm, vui lắm. Gia đình cũng thấy ấm cúng”, ông Nhanh bày tỏ.

Tuy nhiên, cũng theo ông Nhanh, năm 2012, đồng đội lại cho hay, mộ lúc trước bốc là không đúng, đã tìm và bốc được chính xác mộ sau, đợi làm thủ tục mang về.

“Khi đó gia đình hết sức ngỡ ngàng. Nhưng rồi ông Tô Minh Thi là lãnh đạo chế hồi đó, cùng một số anh chị em đơn vị trình bày cặn kẽ nên má tôi bảo, tin hài cốt sau là đúng”, ông Nhanh bộc bạch.

Ngày 6/8/2012, các cựu TNXP Cà Mau đã tìm kiếm, cất bốc được hài cốt  Anh hùng LLVTND Võ Thị Hồng tại khu vực ấp Tà Êm, xã Vĩnh Ðiều (kênh Vĩnh Tế), huyện biên giới Giang Thành, tỉnh Kiên Giang.

(Ảnh chụp từ nguồn các cựu TNXP Cà Mau cung cấp).

Câu chuyện có tới 2 hài cốt cũng khá dài dòng. Có thể tóm tắt theo lời diễn giải của ông Tô Minh Thi (người trực tiếp tham gia tìm bốc hài cốt sau) như sau: Khi nghe một số anh chị em TNXP ở Cần Thơ (cùng chung Liên đội TNXP tuyến 1C ngày trước) bốc được mộ của liệt sĩ Hồng Láng, ông Minh Thi và một số đồng đội cựu TNXP Nguyễn Việt Khái II mới hỏi thăm địa điểm bốc. Khi nghe họ nói địa điểm, thì nhóm Cà Mau và một số đồng đội gần gũi Hồng Láng hồi ấy (ở Cà Mau và các tỉnh như Sóc Trăng, Kiên Giang, Cần Thơ) cùng nhận định, mộ đã bốc không đúng chỗ hồi ấy chôn (cách tới 4-5 cây số), có lẽ đã nhầm lẫn một đồng đội khác. Sợ trí nhớ không còn minh mẫn, bà Ðoàn Ngọc Ánh (vợ ông Minh Thi, cũng là đồng đội) lên Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Cà Mau nhờ tìm lại giấy báo tử. Và trong giấy ghi rõ ràng địa điểm hy sinh, nơi chôn ở Tà Êm.

Vậy là họ tập hợp nhau, lần theo trí nhớ hơn 40 năm, xác định lại vị trí. Rồi hơn 10 đồng đội cùng bỏ tiền túi ra làm lộ phí đi qua Hà Tiên đến Tà Êm (khu vực sông Vĩnh Tế, xã Vĩnh Ðiều, huyện biên giới Giang Thành, tỉnh Kiên Giang) để tìm mộ.

“Khi chúng tôi qua hỏi thăm, tìm được nhà ông già anh Tư Kênh hồi trước là cơ sở ta và cũng là người chôn cất Hồng Láng. Anh Tư Kênh cho biết, khi còn sống, ba anh có chỉ khu vực chôn và dặn dò sau này có người tìm hài cốt thì chỉ. Khi chôn Hồng Láng, anh Tư độ 14-15 tuổi nên cũng biết”, bà Ánh kể.

Ði cùng có ông Cao Văn Hùng, là 1 trong 2 người ngày trước khi liệt sĩ Hồng Láng được người dân lấy xác chôn, mấy ngày sau có đến kiểm tra (đơn vị cử tới kiểm tra nếu chôn cạn thì chôn lại, nhưng khi đào lên thấy đã chôn sâu nên ông lấp đất lại). Ông Hùng nhớ, nơi đó hồi ấy là bờ tre, trước đó mấy hôm có chôn một đồng đội tên Cường.

Ông Minh Thi, bà Ngọc Ánh, bấm tay tính và cho biết, họ có tới 6 lần đi khảo sát và đào kiếm mới tìm được hài cốt. Trong đó, riêng đào kiếm 3 lần. Bà Ánh giải thích, trong điều kiện mấy chục năm, địa hình, địa vật có nhiều biến đổi, thì chuyện xác định được nơi chôn cất cho đúng đâu phải chuyện dễ. Thêm nữa, với liệt sĩ Hồng Láng đã một lần bốc mộ, khi khẳng định không chính xác thì phải có trách nhiệm tìm cho đúng, mang được hài cốt về cho gia đình, cũng là để nhóm anh chị em lấy hài cốt trước được yên tâm.

“Vùng đất chôn mộ ngày trước giờ dân khai phá để làm ruộng, vì biết nơi đó có mộ nên họ chừa ra một khoảnh gần 2 công. Ðất biên giới ở đó cứng lắm, 2 lần đầu chúng tôi không nhờ lực lượng hỗ trợ, đào tới 2 ngày mà không tìm thấy”, bà Ánh kể.

Lần đào kiếm cuối cùng có lẽ khó quên với họ. Ðó là vào ngày 6/8/2012, ngoài mấy chục cựu TNXP, còn có sự hỗ trợ của lực lượng quân sự huyện Giang Thành.

“Ðào xới tung hết từ sáng tới xế chiều mới tìm được hài cốt. Bà con địa phương lớp gánh nước, lớp mang cơm đến tiếp tế chuyện ăn uống, vui và cảm động lắm. Khi đó, đào sâu xuống khoảng hơn 1 m thì tới lớp đất đen, xốp, khác với đất bình thường nơi đó. Mấy anh em có kinh nghiệm, họ bốc lên ngửi và họ biết. Do còn trẻ, lại bó đệm khi chôn nên xương mục gần hết, còn một ít hoá thạch. Có 1 cục xương nhỏ, khi chúng tôi để lên bàn tay, lúc sau là tan biến. Vẫn còn sót vài sợi dây đệm”, nói rồi bà Ánh mang một số hình chụp khi ấy ra và chỉ từng phần xương cốt còn lại. Lần đó lấy được luôn mộ đồng chí Cường nằm cạnh.

Hài cốt liệt sĩ Hồng Láng sau đó được mang về an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh Cà Mau (sau một thời gian gửi lại K92 - đội cất bốc, quy tập hài cốt liệt sĩ của Tỉnh đội Kiên Giang - chờ tỉnh Cà Mau cho người sang xác minh tường tận).

Chiến tranh, ngoài chết chóc tang thương còn gây nhiều cảnh ngang trái đau lòng. Và đôi khi, không xử lý bằng cái tâm, cái tình và trách nhiệm, dễ dẫn đến có lỗi với vong linh người mất và làm tổn thương người còn sống. Vẫn vui vì những ứng xử hậu câu chuyện này. Ban đầu, khi biết mộ sau mới đúng của liệt sĩ Võ Thị Hồng, gia đình không hương khói mộ ở nghĩa trang huyện nữa. Nhưng sau nghĩ lại, gia đình đồng thời hương khói cả 2 ngôi mộ, 2 nơi. Bởi dẫu không phải ruột thịt thì cũng là đồng đội con em mình, là những người hy sinh vì đất nước, một nén nhang thắp ở mộ, cũng là thắp sáng đạo lý, tình người.

Một điều vinh dự cho gia đình, cho quê hương nữa là, năm 2010, tại ấp Ðá Bạc, xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời, một ngôi trường cấp 3 sừng sững mọc lên. Ngôi trường mang tên người con anh hùng của quê hương xứ sở - Trường THPT Võ Thị Hồng./.

 

Huyền Anh

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.