ĐT: 0939.923988
Thứ năm, 2-1-25 23:42:30
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM SỰ KIỆN TẬP KẾT RA BẮC (1954-2024)

Bây giờ mới nói

Báo Cà Mau

Minh hoạ: Minh Tấn

Minh hoạ: Minh Tấn

- Anh Út (*), anh nhớ lực lượng nào tiếp quản khi đối phương giao khu tập kết cho ta?

- Một trung đội chủ lực của Tiểu đoàn 307, lấy từ Ðại đội 933 với cán bộ chỉ huy tiểu đoàn và tổ liên hợp. Tất cả được phân công ra tiếp quản thị trấn Cà Mau, Tắc Vân, Hộ Phòng, Giá Rai và Hoà Bình (trên Quốc lộ 4). Bên ta đều trẻ tuổi (từ 18-25) khoẻ mạnh, đẹp trai, múa hát hay...

- Ðồng bào vùng tạm chiếm bấy giờ đón ta thế nào?

- Khi chúng tôi tới cầu quay Cà Mau, nhiều người, phần đông là người già và trẻ em, tò mò đến, đứng xa xa xem Việt Minh có phải như Pháp và Bảo Ðại tuyên truyền “7 người đeo không gãy tàu lá đu đủ”. Bà con thấy anh em ta đẹp và vui quá, mặc đồng phục ka-ki vàng mới tinh.

- Quân phục của cơ quan nào cấp?

- Vải của quân trang. Còn công kỹ, thức suốt đêm, may cho anh em kịp mặc ra thành, là nhờ các má, các chị em ở Cái Nhúc.

- Thủ tục giao - nhận khu tập kết thế nào, anh Út?

- Một quan ba Pháp từ Bạc Liêu tới với mấy tên tuỳ tùng, quân phục và ga-lon nghiêm chỉnh. Ðối phương cùng chúng tôi bắt tay xã giao, phiên dịch làm việc trôi chảy sau lời chào hỏi khá lịch sự. Rồi họ đưa ta lại từng công sở giao - nhận sổ sách ký tên đóng dấu. Cờ tam tài kéo xuống, cờ đỏ sao vàng kéo lên khi chiến sĩ ta bồng súng chào. Cờ ta tung bay trước gió, thắm tươi, vẫy gọi mọi người. Ta đi tới đâu, nhà nhà mở cửa chào đón tới đó. Không rõ cờ Tổ quốc được chuẩn bị bao giờ, được treo lên trên nóc, trên cửa sổ mỗi nhà như mọc từ lòng yêu nước, tràn ngập các khu phố, bến tàu, nhà lồng chợ và tiệm quán... Hôm đó là ngày 1/8/1954, 9 giờ sáng.

- Thưa anh, lúc nào ta mới rước bộ đội và đồng bào ra chợ?

- Ðúng 11 giờ ngày 21/8/1954, quân dân ta từ năm ngã sông đổ ra Cà Mau... Người, băng cờ, khẩu hiệu, ống loa... rợp trời thị trấn Cà Mau và nhiều nơi khác trong khu vực quy định tập kết. Tôi không nhớ hết và không nói hết cảm xúc trào dâng của mình bấy giờ. Mỗi ánh mắt, mỗi lời tung hô hoà bình, chúc thọ Bác... đều góp phần tạo nên một bức tranh hoành tráng một không khí khác thường, mình thấy như trời đất rộng lớn hơn.

- Giao xong, đối phương làm gì tiếp theo?

- Ba sĩ quan Pháp và trung đội bảo hoàng co ro trên xe chạy về Bạc Liêu, chúng bị mọi người quên lãng như không hề có mặt. Khi đó, cán bộ và chiến sĩ ta đến đâu quần chúng vây quanh hỏi han trò chuyện, xin bài ca. Rồi sau đó, chúng tôi được điều về Ðội Cảnh vệ Bộ Tư lệnh miền Tây, ra Phụng Hiệp bảo vệ đồng chí Phạm Hùng, Trưởng ban Liên hợp Nam Bộ.

- Thời điểm tập kết, anh Út có chuyện gì đáng nhớ nhất?

- Có. Ðó là chuyến tàu thứ hai, trung đội tôi được lệnh đi công tác Vũng Tàu, lên tàu Strasvobol (của Liên Xô), nhiệm vụ của chúng tôi là đón đoàn cán bộ y tế từ miền Bắc vô, gồm 9 đồng chí, trong đó có một bác sĩ người cao, da đen: “Bác sĩ Lê Ba”. Ông này rất bí mật. Khi xuống tàu LCM một ngày đêm về Chắc Băng, ít giao tiếp với ai. Ba người ngồi kế ông là cảnh vệ chúng tôi, bí mật che chắn không cho các nhà báo nước ngoài tiếp cận ông phỏng vấn. Khi về đến doanh trại ta ở Chắc Băng, các anh chỉ huy ra mừng đón, chúng tôi mới vỡ lẽ “Bác sĩ Lê Ba” chính là đồng chí Lê Duẩn của chúng ta!

Ðồng chí Lê Duẩn về Chắc Băng, chủ trì hội nghị đầu tiên của Xứ uỷ Nam Bộ, chỉ đạo cuộc tập kết lịch sử. Ðồng chí được hội nghị cử làm Bí thư Xứ uỷ. Sau chuyến tàu thứ ba, đồng chí Lê Duẩn cùng Xứ uỷ chỉ đạo nên chuyển quân xuống bến sông Ông Ðốc tiện hơn cho ta (để ta chuyển súng đạn từ Bắc vào Nam, rút cán bộ vừa lên tàu trở xuống, ở lại chiến đấu... thuận lợi hơn những bến khác).

Còn phía Pháp, họ sợ tuyến Cần Thơ - Vũng Tàu, lúc xuyên qua tuyến sông và kênh xáng liên tỉnh, đồng bào ra tận tàu chào mừng và tiễn đưa bộ đội ta, nên họ cũng đồng ý với đề nghị của ta chọn bến sông Ông Ðốc tàu cập bến rước quân tập kết.

-  Thủ tục kiểm soát thế nào, anh Út còn nhớ không?

-  Mình xuống tàu thì đối phương cùng Uỷ ban Liên hợp kiểm soát, có Uỷ hội Quốc tế giám sát. Chúng nó quay phim, chụp hình và đếm quân số, vũ khí của ta đưa xuống tàu là bao nhiêu. Khi xuống bến sông Ông Ðốc, chúng làm việc này khó hơn tuyến sông Cần Thơ, vì bờ biển quá rộng.

-  Những cán bộ ngoài Bắc đưa vào Nam, đều học cách ăn mặc và sinh hoạt theo Nam Bộ. Có đồng chí được tập huấn ngắn ngày từ Liên Xô mới về nước, có lịnh đi vào Nam ngay. Chúng tôi, tổ cảnh vệ phải đưa các anh chị này ra Cà Mau, Giá Rai... cho quen giao tiếp, rồi nhận nghị quyết đi các tỉnh hoặc Sài Gòn. Mỗi đồng chí trong đoàn cán bộ này đều có thể họ đạo Thiên Chúa ở Bùi Chu, hoặc nơi nào đó ở miền Bắc, đi cử vào Nam, tiền bạc mang theo đủ sống 6 tháng để thâm nhập vào miền Nam. Các anh chị học cao, trẻ đẹp (tuổi từ 25-30) hoàn toàn bỡ ngỡ với miền Nam, nên phải học thuộc tín hiệu (**). Anh Nguyễn Xuyến, Tham mưu phó Quân khu 9, giao nhiệm vụ xong, điều số cán bộ chi viện này đi các tỉnh Nam Bộ... chỉ còn 2 người ở lại thị tứ sông Ông Ðốc để mở trường dạy học (sửa doanh trại dừng quân của ta lúc tập kết làm trường tiểu học đầu tiên ở thị tứ sông Ông Ðốc).

- Theo anh Út nhớ, chuyến tàu cuối cùng của ta xuất phát thế nào?

- Ðồng chí Nguyễn Chánh, Tham mưu trưởng Quân khu miền Tây, Trưởng ban Liên lạc khu tập kết 200 ngày, ra sân lễ đọc lời tạm biệt đồng bào. Anh cảm động đọc không được, anh Nguyễn Văn Tiên, nguyên Chính trị viên Tiểu đoàn 307, bấy giờ là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1, đứng ra đọc tiếp, hứa với đồng bào 2 năm trở về, lại cũng xúc động đọc đứt quãng. Hai chiến sĩ cảnh vệ kéo cờ ta xuống để xếp lại mang đi. Mấy hàng chiến sĩ bồng súng dàn chào như tượng thần, lặng lẽ. Chúng tôi cùng đồng bào mặc niệm vong linh các chiến sĩ anh hùng và đồng bào tử nạn vì chiến tranh. Ðồng bào hai bên chợ im lặng nhìn cảnh quân dân ly biệt. Các chị bưng nước hột é và si rô cho bộ đội uống...

Ðúng 18 giờ ngày 10/2/1955, tiếng loa phát thanh từ tàu Ba Lan vang lên, chào tạm biệt đồng bào miền Nam, chào quê hương kiên cường chiến đấu cho ngày thống nhất 2 miền. Tất cả im lặng nhìn lên bờ trong 2 phút theo lệnh đồng chí Nguyễn Văn Tiên. Tàu kéo còi 3 hồi dài rồi phát máy, rung rung chuyển mình vượt sóng ra hướng Bắc...

(*) Thiếu tá Lâm Phú Hữu, hội viên Hội Cựu chiến binh tỉnh Cà Mau.

(**) Tín hiệu mật giao của Ban Tổ chức Trung ương. Nhờ tín hiệu, khi ổn định chỗ ở, người mới tới mới được liên hệ cơ sở cách mạng, nối sinh hoạt.

 

Nguyễn Bá

 

Người về bến cũ

Bến Sông Ðốc - địa danh gắn liền với sự kiện lịch sử chuyến tàu tập kết, những ngày cuối năm 2024 chứng kiến cuộc hội ngộ đặc biệt của cựu học sinh miền Nam. Họ, những người từng bước lên tàu rời quê hương cách đây 70 năm để ra Bắc học tập, cống hiến, nay trở lại bến xưa với mái đầu bạc trắng và trái tim ngập tràn cảm xúc.

Về căn cứ xưa, nghe kể chuyện chở che bộ đội đánh giặc...

Trong kháng chiến chống Mỹ, Xẻo Trê (thuộc ấp Lý Ấn, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước) được chọn làm nơi đóng quân của Ban Chỉ huy Tỉnh đội. Suốt 9 năm (1964-1973), căn cứ Xẻo Trê vẫn giữ được bí mật, an toàn tuyệt đối, tạo sức mạnh để tấn công kẻ địch. Ðó là nhờ vào lòng dân luôn đùm bọc che chở, hết lòng vì cách mạng, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ khu căn cứ.

Nơi lý tưởng để giáo dục truyền thống

Di tích lịch sử cấp tỉnh “Cây me Rạch Gốc” (toạ lạc tại ấp Rạch Gốc, xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển), địa điểm minh chứng cho truyền thống lịch sử của vùng đất Tân Ân, được chính quyền địa phương và người dân nơi đây trân trọng, giữ gìn và phát huy giá trị.

Biểu tượng bất tử

Đền thờ 10 Anh hùng liệt sĩ Khởi nghĩa Hòn Khoai uy nghiêm giữa lòng TP Cà Mau. Công trình là biểu tượng bất tử của truyền thống anh hùng cách mạng, trang sử vàng của vùng đất cuối trời cực Nam Tổ quốc.

Thư từ Vàm Lũng

Thư từ Vàm Lũng

Truyền thống anh hùng vinh quang tiếp nối

Trong tiết trời se lạnh mỗi độ xuân về, trong mỗi người con đất Việt luôn nguyên vẹn niềm vui, tự hào khi có Ðảng. Ðặc biệt hơn, bước sang năm 2025, đất nước ta đón sự kiện quan trọng là đại hội Ðảng các cấp, đây là dịp để Ðảng ta tiếp tục chọn ra những cán bộ, đảng viên ưu tú tham gia thực hiện trách nhiệm thiêng liêng vì mục tiêu: làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Ngôi trường Nhà Máy

Vừa rời khỏi lớp Giáo khoa của Nha Giáo dục Nam Bộ đào tạo giáo viên cấp tốc 3 tháng ở vàm Rạch Ráng (do Tiến sĩ Hoàng Xuân Nhị, Giám đốc Nha Giáo dục Nam Bộ làm Hiệu trưởng), tôi được chú Nguyễn Tạo, Trưởng ty Giáo dục Bạc Liêu, giao nhận nhiệm vụ Hiệu trưởng Trường Tiểu học ấp Nhà Máy, xã Khánh Bình Tây (gồm lớp Nhì A, lớp Nhì B, lớp Ba, lớp Tư, có trên 150 học sinh hết thảy). Hôm đó là ngày lịch sử vẻ vang của đất nước.

Các anh về với đất mẹ xứ Đầm

Anh Sáu Phước (Lê Hoàng Phước), nguyên Giám đốc VNPT Cà Mau, hiện là Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Cà Mau, gọi điện cho tôi, giọng xúc động: “Tổ chức “Trái tim người lính” phục dựng và trao tặng lại di ảnh của 2 liệt sĩ Lê Tấn Tài và Lê Tấn Lộc, 2 người anh ruột của anh Sáu Phước, tại gia đình. Em liên hệ đoàn theo chuyến này để cùng mọi người đón các anh về với gia đình, với quê hương Đầm Dơi sau mấy chục năm trời”.

Mạch nguồn giáo dục kháng chiến

Nhìn vào lịch sử cách mạng của vùng đất Cà Mau trong thời đại Hồ Chí Minh, có thể nhận thấy những điều rất đặc biệt về giáo dục trong kháng chiến. Sự nghiệp giáo dục những thế hệ “hạt giống đỏ” cách mạng kế cận luôn là công việc hệ trọng mà Bác Hồ và Ðảng ta luôn đặc biệt quan tâm gắn liền với mục tiêu thiêng liêng của sự nghiệp cách mạng là chiến thắng giặc thù, giành lại hoà bình, thống nhất và xây dựng, phát triển đất nước. Xuyên suốt 2 cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, Cà Mau trở thành chiếc nôi giáo dục kháng chiến Nam Bộ và đã hoàn thành vẻ vang sứ mệnh được giao phó.

Hẹn một ngày về

Từ nhiều tháng trước, các cựu học sinh miền Nam (HSMN) ở TP Hồ Chí Minh đã háo hức hẹn nhau cùng về Sông Ðốc - Cà Mau, dự Kỷ niệm 70 năm Sự kiện tập kết ra Bắc, dù trong số ấy không phải ai cũng ra đi từ bến Sông Ðốc. Về với Sông Ðốc - Cà Mau, về với sự kiện mà 70 năm trước được xem là mốc khởi nguồn của các trường HSMN trên đất Bắc, với các cựu HSMN, thêm một lần nữa được tắm mình trong ký ức buồn vui của quãng đời tuổi thơ vắng mẹ, thiếu cha đầy khắc khoải nhớ thương, nhưng cũng rất đỗi tự hào.