ĐT: 0939.923988
Thứ bảy, 31-5-25 08:10:53
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Ðại tá từ du kích

Báo Cà Mau Trong các bạn bè, đồng đội cùng hàm, trên dưới tuổi tám mươi, Ðại tá Trần Công Bình (Út Bình) có lẽ là người đậm chất từ du kích, tên ông gắn liền với du kích Thạnh Phú một thời lẫy lừng chốt chặn phía Nam tỉnh lỵ An Xuyên, bảo vệ vùng giải phóng Nhà Phấn, Rạch Mũi trong tầm đại bác của địch.

Ðại tá Trần Công Bình (Út Bình).

Ông sinh năm 1943 ở xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, cha mẹ đặt tên là Trần Tấn Thanh, nhưng khi tham gia cách mạng, tổ chức lại “biến” cái tên nằm nôi ấy thành Trần Công Bình, sinh năm 1945.

Sau đồng khởi năm 1960, đang học đệ ngũ ở Trường Trung học An Xuyên, ông cùng một số học sinh rải truyền đơn chống chế độ độc tài phát xít Ngô Ðình Diệm, bị địch truy bắt, chạy về vùng giải phóng, được giao nhiệm vụ Ấp đội phó ấp Bào Bèo. Tháng 11/1962, ông học khoá công binh, đặc công 6 tháng, ra trường về địa phương quân Châu Thành đánh 5 trận, trong đó có trận tiêu diệt đồn Hàng Gòn, bắt tù binh, thu vũ khí.

Dường như ông không có duyên với đời lính tập trung, quy củ. Ông quay về xã nhà nhận nhiệm vụ Trung đội trưởng Trung đội Du kích 2. Từ đây, bắt đầu tự mình tính, tự mình đánh. Là du kích thì chỉ huy không ở phía sau, mà là người trực tiếp giật mìn, nổ súng lệnh mở màn trận đánh, dù là phục kích, tập kích hay công đồn...

Cũng nhờ "lận lưng" được một số vốn ở lớp công binh, đặc công của tỉnh nên cách đánh của ông linh hoạt, biết mình, biết sơ hở của địch. Là địa bàn tiếp giáp với nơi xuất phát hành quân của bọn tiểu khu, lại có trục lộ 4 (nay là Quốc lộ 1) xuyên giữa. Mặc dù lộ ta đào phá nhưng có đoạn xe cơ giới địch còn hoạt động được, lại trong tầm các trận địa pháo 105, 155 ly của địch. Ðồn bót địch tô dày theo tuyến lộ từ Nàng Âm đến Cái Rắn. Các trận chống càn của du kích xã diễn ra liên miên, hiệu quả.

Những năm 1969-1970, tình hình cực kỳ khó khăn, trong xã có tới 9 đồn bót, căn cứ Nhà Phấn, Rạch Mũi không còn an toàn, nhưng với truyền thống của xã nơi diễn ra sự kiện lịch sử treo cờ Ðảng đầu tiên ở đình Tân Hưng năm 1931, Mặt trận Tân Hưng năm 1946, Ðảng bộ và Dân quân du kích được củng cố, quyết tâm bám chặt địa bàn, diệt từng tên địch. Không đầy 20 ngày của tháng 12/1969, du kích xã đã xoá phiên hiệu Ðại đội 397 của tên Hoàng Phương khét tiếng gian ác, thu 15 súng, trong đó có 1 đại liên. Quân số của Trung đội Du kích tăng lên 30 người.

Tính từ tháng 8/1971 đến tháng 1/1972, Dân quân du kích xã, ấp Thạnh Phú đã tiêu diệt được 13 xe quân sự, trong đó có 6 xe M113, bẻ gãy kế hoạch sửa lộ lần thứ hai của địch. Thành tích này buộc địch phải điều số xe M113 còn lại đi nơi khác, loại khỏi vùng đất Cà Mau một binh chủng lợi hại. Người dân tin tưởng, thân thương gọi là “Du kích Út Bình”.

Hưởng ứng Chiến dịch Xuân - Hè 1972, du kích xã đã tập kích tiêu diệt Ðồn Chẹt lần thứ hai, làm chủ trận địa, thu vũ khí. Thừa thắng xông lên bao vây đồn Nhà Phấn và Cái Nhum, chỉ trong 2 ngày đêm, chúng phải tháo chạy, ta truy kích đuổi theo diệt 5 tên, thu 3 súng, có 1 cối 60 mm. Ngày 27/1/1972, phục kích tiêu diệt 7 tên ở đồn Bào Bèo bung ra, trong đó có tên Phát đồn trưởng. Năm này, ông Út Bình là Thường vụ Xã uỷ, Xã đội trưởng, vẫn cầm quân đánh, trong đầu ông luôn thường trực là chỉ huy không chỉ bày cho cấp dưới đánh mà phải trực tiếp đánh. Sự có mặt của lãnh đạo càng củng cố niềm tin và sự phấn khích của chiến sĩ.

Sau Hiệp định Paris 1973, cuộc chiến đấu giữ đất giành dân càng trở nên sôi động, ác liệt. Ngày 15/3/1973, du kích xã đã phục kích diệt một đại đội của Tiểu đoàn 3, Sư 21 làm chết tại chỗ 36 tên, có tên Võ là đại đội trưởng, 15 tên bị thương, bắt sống 5 tên, thu 15 súng, có 1 col 45. Lần đầu tiên du kích Thạnh Phú tiêu diệt gọn một đại đội chủ lực nguỵ. Ðài Giải phóng và Hà Nội loan tin chiến thắng khắp nơi.

Các trận phục kích ngày 7/6 ở Cả Giữa, ngày 10/8 ở Hoà Trung, ngày 21/12 ở Cả Giữa (lần 2), uy hiếp và đánh địch tháo chạy ở Nhà Phấn giành thắng lợi giòn giã, địch ở đồn Nhà Phấn, Cái Nhum và Cả Giữa phải tháo chạy, ta thu nhiều vũ khí.

Năm 1974, thời cơ giải phóng xã đã đến, hiện xã còn 4 đồn (1 đồn bảo an và 3 đồn dân vệ). Ngày 20/3/1974, du kích xã, ấp mở đợt bao vây, uy hiếp đồn Nàng Âm, dùng đầu đạn 105 và M79 bắn thẳng vào đồn, phục kích đánh bọn can viện, 10 giờ đêm ngày 26/10/1973 bọn đồn Nàng Âm tháo chạy bị ta chặn đánh, thu 1 đại liên 60 và 13 súng các loại, 3 máy PRC25, đồn Nàng Âm được giải phóng lần 2.

Ngày 6/11/1974, đồn Bào Bèo tháo chạy, ta sang bằng lần 2. Ðêm 15/11/1974, tấn công vào đồn Kinh Giữa, tên đồn trưởng Thiểu chết tại chỗ, cả bọn tháo chạy. Lúc này toàn xã chỉ còn đồn Hoà Trung, với những cách đánh lợi hại dùng bệ phóng đầu đạn 105, 3 khẩu M79 làm chết và bị thương nhiều tên, bọn chúng tháo chạy, ta tràn vào chiếm đồn, huy động dân công san bằng.

Tính từ năm 1960 đến ngày 25/11/1974, du kích ấp, xã Thạnh Phú đã đánh hàng trăm trận, loại khỏi vùng chiến đấu hàng ngàn tên địch bằng vũ khí tự tạo và súng thu được của địch, bứt rút và tiêu diệt 39 lượt đồn bót, phá huỷ 19 xe quân sự, trong đó 6 xe M113, bắn rơi 1 máy bay, thu 415 súng các loại, đánh sập 11 lượt cầu, cống. Như vậy, cho đến ngày 28/11/1974, quân và dân xã Thạnh Phú đã nhổ xong các đồn bót trong xã, là xã được giải phóng đầu tiên trong huyện. Có thành tích này là nhờ sự lãnh đạo của xã uỷ, công trường xã do anh Hai Minh chỉ huy đã sản xuất, cải tiến từ vũ khí địch để đánh địch; sự phục vụ của trạm y tế xã, cứ mỗi trận đánh có chuẩn bị trước đều có cán bộ y tế đi theo để sơ cứu thương binh; là công sức của Dân quân du kích các ấp; là sự đùm bọc nuôi chứa của Nhân dân; là máu xương của 62 anh em trong đội Du kích. Thông qua cuộc chiến đấu, trưởng thành từ du kích, đã có 3 cán bộ được phong hàm đại tá: Trần Công Bình (Út Bình), Nguyễn Thành Tiết (Hai Tiết), Ngô Kim Nghĩa, 1 thượng tá Nguyễn Hồng Nỉ (Út Nỉ) và Lê Minh Thiển, nguyên Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Bạc Liêu.

*****

Bên tách trà nóng, câu chuyện giữa ông Út Bình và tôi chậm rãi như rút ra từng mớ ký ức mấy mươi năm về trước. Chuyện lấy vợ cũng đậm màu chiến đấu. Ông kể, ngày đó giữa ta và địch đang cắm cờ giữ đất, giành dân, thì anh Năm Tùng, Thường vụ Xã uỷ mời ông về tổ chức lễ thành hôn cùng người con gái tên Lê Thị Kim Anh, con của ông bà Lê Thiện Mít và Bùi Thị Tám, ở ấp Tân Hiệp, xã Tân Hưng. Ðúng ngày 26 tháng Chạp năm 1973, lễ tuyên bố vừa xong, ông xin phép trở lại kiểm tra trận địa đang bố trí, 18 ngày sau mới quay về. Ông già vợ lắc đầu nói: “Tôi thương thằng Bình đánh giặc giỏi, nhưng lo cho con gái tôi, nếu nó có bề gì thì con tôi sẽ khổ...”. May mà Út Bình không chết, chỉ 4 lần bị thương. Tháng 2/1975, chị Kim Anh sinh con trai, đặt tên là Trần Tấn Yên.

Ngày 14/3/1969, ông được về nhà tát đìa kiếm cá làm giỗ cho cha thì bị bọn đồn Hoà Thành bắt, như một giai thoại, 2 lần chúng đưa họng súng carbine vào đầu nhưng không nổ, 4 tên lính đè ông định mổ bụng thì thằng Tổng, xã trưởng Hoà Thành kịp ngăn, rồi đưa về đồn đốt cháy đầu, 7 ngày bị giam cầm đánh đập nhừ tử, rồi ông được thả. Té ra nhờ ông Ba Ðước, bạn bè của xã Tổng lo lót, gia đình chạy vạy được 40 ngàn đồng, chúng bảo không đủ chia, phải chạy 1 ngàn đồng nữa. Vỡ ra, chúng tha cho một du kích nòi cũng vì tiền.

Về việc ông được kết nạp Ðảng hụt cũng có tình tiết đáng nhớ. Ðêm 31/3/1965, đơn vị tấn công đồn Cái Keo, chỉ còn một lô cốt chống trả, ta bị thương vong nhiều. Chỉ huy ra lời kêu gọi, ai đánh chiếm lô cốt địch sẽ được kết nạp Ðảng tại mặt trận. Ông không biết tác dụng của lời kêu gọi hay là có sự toan tính trước trong đầu, đã cùng tổ xung kích vòng ra phía sau dùng bộc phá diệt lô cốt địch, kết thúc trận đánh, lúc này ông đã 22 tuổi. Những tưởng như vậy đã là đảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam, không ngờ trở lại đơn vị, rồi về du kích xã, lãnh đạo không hề nhắc tới việc này. Té ra, vì ông nội trước năm 1945 có làm biện, là thành phần “ăn trên ngồi trước”. Cho đến ngày 31/3/1969, Xã uỷ mời ông về và tuyên bố ông được kết nạp Ðảng, lấy ngày 31/3/1969 làm ngày chính thức.

Giải phóng xong xã, Trung đội Du kích xã Thạnh Phú được điều về Tiểu đoàn U Minh 2, ông được bổ nhiệm làm Chính trị viên Ðại đội 1, có nhiệm vụ bao vây chi khu Ðầm Dơi, đánh bộ phận của Sư 9 giải vây chi khu Ðầm Dơi, thu 17 súng, chuẩn bị giải phóng tỉnh, ông và toàn đội du kích rút về thành lập Tiểu đoàn X09, ông giữ chức Chính trị viên Ðại đội 4.

4 giờ ngày 30/4/1975 đơn vị khống chế buộc bọn căn cứ hải quân đầu hàng. Sáng ngày 1/5/1975, toàn tiểu đoàn lên tàu Thanh Hồng và vòng theo hàng chục xuồng hành quân tiếp quản Biệt khu Hải Yến (Bình Hưng).

Giặc trong nước đã dẹp xong, ông được cử đi học nghiệp vụ công tác xây dựng Ðảng giúp bạn Campuchia và học tiếng Khmer 2 năm. Ra trường, ông lên máy bay ở Trà Nóc sang làm chuyên gia Tỉnh đội Kô Kông. Tám năm phục vụ ở nước bạn, từng giữ chức Ðoàn trưởng Ðoàn 9907, kiêm Sư đoàn phó Sư đoàn 4. Chuyện làm chính trị viên tiểu đoàn hành quân ra Bắc, đánh bọn xâm lược dù chỉ một tháng trong năm 1979, quay về cũng là một kỷ niệm. Nhìn vào mấy chục tấm huân, huy chương, không chỉ có từ thâm niên mà phần nhiều từ trận mạc, từ tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia.

7 năm là du kích xã, 4 lần bị thương, 8 năm ở chiến trường Campuchia, 12 năm làm Huyện đội trưởng huyện Thới Bình... Ðời người, đời lính biết bao buồn vui, hạnh phúc đang dâng trào đó, bỗng chốc thành nỗi đau sau tiếng nổ. Cái miếu thờ sát doi rạch cạnh nhà ông có ghi tên 82 liệt sĩ, hằng ngày ông tới lui chăm sóc, ông coi như ân nhân./.

 

Nguyễn Thái Thuận

 

Ký ức Dớn Hàng Gòn

56 năm đã trôi qua, nhưng những ký ức về trận B52 Mỹ rải thảm huỷ diệt gần 2 cây số kinh Dớn Hàng Gòn ngày 11/9/1969 (âm lịch) gây biết bao đau thương, tang tóc vẫn còn được người dân nơi đây lưu giữ để nhắc nhớ về giá trị của hoà bình, thống nhất cho thế hệ sau. Chúng tôi tìm gặp những nhân chứng để kể lại chuyện xưa, không phải để khơi lại nỗi đau, mà phác hoạ cho đầy đủ thêm diện mạo của đất và người Khánh Lâm anh hùng.

Người về từ trại VII

Men theo con đường bê tông cặp bờ sông từ chùa Ông Bổn đi về hướng Tắc Thủ một quãng ngắn, rồi rẽ vào con hẻm nhỏ sâu hút vừa đủ chiếc xe hai bánh qua, tôi đến nhà ông Trương Văn Liền, nguyên Phó chủ tịch Hội Cựu tù Chính trị TP Cà Mau. Căn nhà vừa được sửa chữa, tường vôi màu xanh nhạt, nền lát gạch sáng bóng, chừng như ông lo trước cho ngày kết cục của mình nên chừa một khoảng sân khá rộng, mấy ngọn gió chui vào lắt lay khóm trúc kiểng, người cùng hẻm khen ông có số hưởng được lộc trời.

Chuyện về gia đình người thương binh 2/4

Quê hương Cà Mau sản sinh biết bao người con ưu tú anh dũng, kiên cường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Câu chuyện về gia đình ông Nguyễn Thành Do (Sáu Do) ở ấp Tân Hoà, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, càng tô đậm thêm truyền thống anh hùng của xứ sở.

Nhà báo - Anh hùng Trần Ngọc Hy khí tiết lưu danh

Hiếm có mảnh đất nào lại có truyền thống báo chí cách mạng đầy tự hào như ở Cà Mau khi có đến 3 nhà báo là liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND): Phan Ngọc Hiển, Trần Ngọc Hy và Nguyễn Mai. Đó là những đại diện ưu tú nhất, thể hiện đầy đủ khí phách, tài hoa, tấm lòng tận hiến của những người làm báo Cà Mau với sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Nhà báo - Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Trần Ngọc Hy đã để lại những dấu ấn sâu đậm, niềm tự hào lớn lao và cảm hứng dào dạt để những thế hệ người làm báo tiếp nối ở Cà Mau nghiêng mình ngưỡng vọng, tri ân và kế tục.

Tri ân một thế hệ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

Cụm từ “Cán bộ đi B” được dùng để chỉ những cán bộ 2 miền Nam - Bắc với tinh thần tự nguyện đã vượt Trường Sơn tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1965-1975. Nửa thế kỷ trôi qua từ sau ngày giải phóng, những bộ hồ sơ, kỷ vật trước lúc lên đường của họ được thế hệ sau tìm kiếm, trao trả lại. Ðó là cả một sự nỗ lực và làm việc cao độ của đội ngũ những người làm công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ.

Tự hào xã anh hùng

Những ngày tháng Tư lịch sử, có dịp trở lại Hàm Rồng sẽ cảm nhận rõ sự đổi thay trên quê hương giàu truyền thống cách mạng này, nơi được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.

70 năm hành trình giữ biển

70 năm trước, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể - tiền thân của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng ngày nay.

Anh hùng của những anh hùng

Gọi Ðại tá Nguyễn Văn Tàu (Trần Văn Quang, Tư Cang), Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (AHLLVTND), huyền thoại của tình báo Việt Nam, là "anh hùng của những anh hùng" cũng rất đúng và không hề tô hồng, ngợi ca. Bản thân ông Tư Cang cũng căn dặn chúng tôi rằng: “Hãy nói, hãy viết bằng sự thật lịch sử. Bởi chỉ cần nói thật, nói đúng về lịch sử của dân tộc ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thôi, thì đó đã là một câu chuyện phi thường”.

50 năm - Nhớ giờ phút này!

Thời điểm chuẩn bị giải phóng miền Nam, theo tinh thần nghị quyết của Quân khu 9 và Tỉnh uỷ Cà Mau: “Tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, đến nửa tháng 4/1975, toàn bộ cứ điểm, đồn bót của địch trên địa bàn huyện Trần Văn Thời đã bị tiêu diệt hoặc rút chạy, chi khu Rạch Ráng trơ trọi như một ốc đảo, sự chi viện từ tiểu khu An Xuyên bằng đường sông đã bị khống chế, đường bộ không có, duy nhất chỉ có trực thăng tiếp tế nhỏ giọt từ thức ăn đến nước uống. Hơn 400 tề nguỵ ở chi khu Rạch Ráng đang khốn đốn, hoang mang tột độ.

Tròn 50 năm tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng Cà Mau

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đầu tháng 3/1975. Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975 theo tinh thần “Tấn công thần tốc như Nguyễn Huệ” mà đồng chí Lê Duẩn nói trong Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Ðảng.