Thứ sáu, 5-9-25 09:40:19
Cà Mau, 32°C/ 32°C - 33°C Icon thời tiết nắng
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Ðại tá từ du kích

Báo Cà Mau Trong các bạn bè, đồng đội cùng hàm, trên dưới tuổi tám mươi, Ðại tá Trần Công Bình (Út Bình) có lẽ là người đậm chất từ du kích, tên ông gắn liền với du kích Thạnh Phú một thời lẫy lừng chốt chặn phía Nam tỉnh lỵ An Xuyên, bảo vệ vùng giải phóng Nhà Phấn, Rạch Mũi trong tầm đại bác của địch.

Ðại tá Trần Công Bình (Út Bình).

Ông sinh năm 1943 ở xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, cha mẹ đặt tên là Trần Tấn Thanh, nhưng khi tham gia cách mạng, tổ chức lại “biến” cái tên nằm nôi ấy thành Trần Công Bình, sinh năm 1945.

Sau đồng khởi năm 1960, đang học đệ ngũ ở Trường Trung học An Xuyên, ông cùng một số học sinh rải truyền đơn chống chế độ độc tài phát xít Ngô Ðình Diệm, bị địch truy bắt, chạy về vùng giải phóng, được giao nhiệm vụ Ấp đội phó ấp Bào Bèo. Tháng 11/1962, ông học khoá công binh, đặc công 6 tháng, ra trường về địa phương quân Châu Thành đánh 5 trận, trong đó có trận tiêu diệt đồn Hàng Gòn, bắt tù binh, thu vũ khí.

Dường như ông không có duyên với đời lính tập trung, quy củ. Ông quay về xã nhà nhận nhiệm vụ Trung đội trưởng Trung đội Du kích 2. Từ đây, bắt đầu tự mình tính, tự mình đánh. Là du kích thì chỉ huy không ở phía sau, mà là người trực tiếp giật mìn, nổ súng lệnh mở màn trận đánh, dù là phục kích, tập kích hay công đồn...

Cũng nhờ "lận lưng" được một số vốn ở lớp công binh, đặc công của tỉnh nên cách đánh của ông linh hoạt, biết mình, biết sơ hở của địch. Là địa bàn tiếp giáp với nơi xuất phát hành quân của bọn tiểu khu, lại có trục lộ 4 (nay là Quốc lộ 1) xuyên giữa. Mặc dù lộ ta đào phá nhưng có đoạn xe cơ giới địch còn hoạt động được, lại trong tầm các trận địa pháo 105, 155 ly của địch. Ðồn bót địch tô dày theo tuyến lộ từ Nàng Âm đến Cái Rắn. Các trận chống càn của du kích xã diễn ra liên miên, hiệu quả.

Những năm 1969-1970, tình hình cực kỳ khó khăn, trong xã có tới 9 đồn bót, căn cứ Nhà Phấn, Rạch Mũi không còn an toàn, nhưng với truyền thống của xã nơi diễn ra sự kiện lịch sử treo cờ Ðảng đầu tiên ở đình Tân Hưng năm 1931, Mặt trận Tân Hưng năm 1946, Ðảng bộ và Dân quân du kích được củng cố, quyết tâm bám chặt địa bàn, diệt từng tên địch. Không đầy 20 ngày của tháng 12/1969, du kích xã đã xoá phiên hiệu Ðại đội 397 của tên Hoàng Phương khét tiếng gian ác, thu 15 súng, trong đó có 1 đại liên. Quân số của Trung đội Du kích tăng lên 30 người.

Tính từ tháng 8/1971 đến tháng 1/1972, Dân quân du kích xã, ấp Thạnh Phú đã tiêu diệt được 13 xe quân sự, trong đó có 6 xe M113, bẻ gãy kế hoạch sửa lộ lần thứ hai của địch. Thành tích này buộc địch phải điều số xe M113 còn lại đi nơi khác, loại khỏi vùng đất Cà Mau một binh chủng lợi hại. Người dân tin tưởng, thân thương gọi là “Du kích Út Bình”.

Hưởng ứng Chiến dịch Xuân - Hè 1972, du kích xã đã tập kích tiêu diệt Ðồn Chẹt lần thứ hai, làm chủ trận địa, thu vũ khí. Thừa thắng xông lên bao vây đồn Nhà Phấn và Cái Nhum, chỉ trong 2 ngày đêm, chúng phải tháo chạy, ta truy kích đuổi theo diệt 5 tên, thu 3 súng, có 1 cối 60 mm. Ngày 27/1/1972, phục kích tiêu diệt 7 tên ở đồn Bào Bèo bung ra, trong đó có tên Phát đồn trưởng. Năm này, ông Út Bình là Thường vụ Xã uỷ, Xã đội trưởng, vẫn cầm quân đánh, trong đầu ông luôn thường trực là chỉ huy không chỉ bày cho cấp dưới đánh mà phải trực tiếp đánh. Sự có mặt của lãnh đạo càng củng cố niềm tin và sự phấn khích của chiến sĩ.

Sau Hiệp định Paris 1973, cuộc chiến đấu giữ đất giành dân càng trở nên sôi động, ác liệt. Ngày 15/3/1973, du kích xã đã phục kích diệt một đại đội của Tiểu đoàn 3, Sư 21 làm chết tại chỗ 36 tên, có tên Võ là đại đội trưởng, 15 tên bị thương, bắt sống 5 tên, thu 15 súng, có 1 col 45. Lần đầu tiên du kích Thạnh Phú tiêu diệt gọn một đại đội chủ lực nguỵ. Ðài Giải phóng và Hà Nội loan tin chiến thắng khắp nơi.

Các trận phục kích ngày 7/6 ở Cả Giữa, ngày 10/8 ở Hoà Trung, ngày 21/12 ở Cả Giữa (lần 2), uy hiếp và đánh địch tháo chạy ở Nhà Phấn giành thắng lợi giòn giã, địch ở đồn Nhà Phấn, Cái Nhum và Cả Giữa phải tháo chạy, ta thu nhiều vũ khí.

Năm 1974, thời cơ giải phóng xã đã đến, hiện xã còn 4 đồn (1 đồn bảo an và 3 đồn dân vệ). Ngày 20/3/1974, du kích xã, ấp mở đợt bao vây, uy hiếp đồn Nàng Âm, dùng đầu đạn 105 và M79 bắn thẳng vào đồn, phục kích đánh bọn can viện, 10 giờ đêm ngày 26/10/1973 bọn đồn Nàng Âm tháo chạy bị ta chặn đánh, thu 1 đại liên 60 và 13 súng các loại, 3 máy PRC25, đồn Nàng Âm được giải phóng lần 2.

Ngày 6/11/1974, đồn Bào Bèo tháo chạy, ta sang bằng lần 2. Ðêm 15/11/1974, tấn công vào đồn Kinh Giữa, tên đồn trưởng Thiểu chết tại chỗ, cả bọn tháo chạy. Lúc này toàn xã chỉ còn đồn Hoà Trung, với những cách đánh lợi hại dùng bệ phóng đầu đạn 105, 3 khẩu M79 làm chết và bị thương nhiều tên, bọn chúng tháo chạy, ta tràn vào chiếm đồn, huy động dân công san bằng.

Tính từ năm 1960 đến ngày 25/11/1974, du kích ấp, xã Thạnh Phú đã đánh hàng trăm trận, loại khỏi vùng chiến đấu hàng ngàn tên địch bằng vũ khí tự tạo và súng thu được của địch, bứt rút và tiêu diệt 39 lượt đồn bót, phá huỷ 19 xe quân sự, trong đó 6 xe M113, bắn rơi 1 máy bay, thu 415 súng các loại, đánh sập 11 lượt cầu, cống. Như vậy, cho đến ngày 28/11/1974, quân và dân xã Thạnh Phú đã nhổ xong các đồn bót trong xã, là xã được giải phóng đầu tiên trong huyện. Có thành tích này là nhờ sự lãnh đạo của xã uỷ, công trường xã do anh Hai Minh chỉ huy đã sản xuất, cải tiến từ vũ khí địch để đánh địch; sự phục vụ của trạm y tế xã, cứ mỗi trận đánh có chuẩn bị trước đều có cán bộ y tế đi theo để sơ cứu thương binh; là công sức của Dân quân du kích các ấp; là sự đùm bọc nuôi chứa của Nhân dân; là máu xương của 62 anh em trong đội Du kích. Thông qua cuộc chiến đấu, trưởng thành từ du kích, đã có 3 cán bộ được phong hàm đại tá: Trần Công Bình (Út Bình), Nguyễn Thành Tiết (Hai Tiết), Ngô Kim Nghĩa, 1 thượng tá Nguyễn Hồng Nỉ (Út Nỉ) và Lê Minh Thiển, nguyên Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Bạc Liêu.

*****

Bên tách trà nóng, câu chuyện giữa ông Út Bình và tôi chậm rãi như rút ra từng mớ ký ức mấy mươi năm về trước. Chuyện lấy vợ cũng đậm màu chiến đấu. Ông kể, ngày đó giữa ta và địch đang cắm cờ giữ đất, giành dân, thì anh Năm Tùng, Thường vụ Xã uỷ mời ông về tổ chức lễ thành hôn cùng người con gái tên Lê Thị Kim Anh, con của ông bà Lê Thiện Mít và Bùi Thị Tám, ở ấp Tân Hiệp, xã Tân Hưng. Ðúng ngày 26 tháng Chạp năm 1973, lễ tuyên bố vừa xong, ông xin phép trở lại kiểm tra trận địa đang bố trí, 18 ngày sau mới quay về. Ông già vợ lắc đầu nói: “Tôi thương thằng Bình đánh giặc giỏi, nhưng lo cho con gái tôi, nếu nó có bề gì thì con tôi sẽ khổ...”. May mà Út Bình không chết, chỉ 4 lần bị thương. Tháng 2/1975, chị Kim Anh sinh con trai, đặt tên là Trần Tấn Yên.

Ngày 14/3/1969, ông được về nhà tát đìa kiếm cá làm giỗ cho cha thì bị bọn đồn Hoà Thành bắt, như một giai thoại, 2 lần chúng đưa họng súng carbine vào đầu nhưng không nổ, 4 tên lính đè ông định mổ bụng thì thằng Tổng, xã trưởng Hoà Thành kịp ngăn, rồi đưa về đồn đốt cháy đầu, 7 ngày bị giam cầm đánh đập nhừ tử, rồi ông được thả. Té ra nhờ ông Ba Ðước, bạn bè của xã Tổng lo lót, gia đình chạy vạy được 40 ngàn đồng, chúng bảo không đủ chia, phải chạy 1 ngàn đồng nữa. Vỡ ra, chúng tha cho một du kích nòi cũng vì tiền.

Về việc ông được kết nạp Ðảng hụt cũng có tình tiết đáng nhớ. Ðêm 31/3/1965, đơn vị tấn công đồn Cái Keo, chỉ còn một lô cốt chống trả, ta bị thương vong nhiều. Chỉ huy ra lời kêu gọi, ai đánh chiếm lô cốt địch sẽ được kết nạp Ðảng tại mặt trận. Ông không biết tác dụng của lời kêu gọi hay là có sự toan tính trước trong đầu, đã cùng tổ xung kích vòng ra phía sau dùng bộc phá diệt lô cốt địch, kết thúc trận đánh, lúc này ông đã 22 tuổi. Những tưởng như vậy đã là đảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam, không ngờ trở lại đơn vị, rồi về du kích xã, lãnh đạo không hề nhắc tới việc này. Té ra, vì ông nội trước năm 1945 có làm biện, là thành phần “ăn trên ngồi trước”. Cho đến ngày 31/3/1969, Xã uỷ mời ông về và tuyên bố ông được kết nạp Ðảng, lấy ngày 31/3/1969 làm ngày chính thức.

Giải phóng xong xã, Trung đội Du kích xã Thạnh Phú được điều về Tiểu đoàn U Minh 2, ông được bổ nhiệm làm Chính trị viên Ðại đội 1, có nhiệm vụ bao vây chi khu Ðầm Dơi, đánh bộ phận của Sư 9 giải vây chi khu Ðầm Dơi, thu 17 súng, chuẩn bị giải phóng tỉnh, ông và toàn đội du kích rút về thành lập Tiểu đoàn X09, ông giữ chức Chính trị viên Ðại đội 4.

4 giờ ngày 30/4/1975 đơn vị khống chế buộc bọn căn cứ hải quân đầu hàng. Sáng ngày 1/5/1975, toàn tiểu đoàn lên tàu Thanh Hồng và vòng theo hàng chục xuồng hành quân tiếp quản Biệt khu Hải Yến (Bình Hưng).

Giặc trong nước đã dẹp xong, ông được cử đi học nghiệp vụ công tác xây dựng Ðảng giúp bạn Campuchia và học tiếng Khmer 2 năm. Ra trường, ông lên máy bay ở Trà Nóc sang làm chuyên gia Tỉnh đội Kô Kông. Tám năm phục vụ ở nước bạn, từng giữ chức Ðoàn trưởng Ðoàn 9907, kiêm Sư đoàn phó Sư đoàn 4. Chuyện làm chính trị viên tiểu đoàn hành quân ra Bắc, đánh bọn xâm lược dù chỉ một tháng trong năm 1979, quay về cũng là một kỷ niệm. Nhìn vào mấy chục tấm huân, huy chương, không chỉ có từ thâm niên mà phần nhiều từ trận mạc, từ tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia.

7 năm là du kích xã, 4 lần bị thương, 8 năm ở chiến trường Campuchia, 12 năm làm Huyện đội trưởng huyện Thới Bình... Ðời người, đời lính biết bao buồn vui, hạnh phúc đang dâng trào đó, bỗng chốc thành nỗi đau sau tiếng nổ. Cái miếu thờ sát doi rạch cạnh nhà ông có ghi tên 82 liệt sĩ, hằng ngày ông tới lui chăm sóc, ông coi như ân nhân./.

 

Nguyễn Thái Thuận

 

Tự hào mái đình quê hương

Trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trên quê hương Cà Mau anh hùng, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại được khắc ghi. Trong đó, không thể không nhắc đến đình Tân Hưng. Đây là nơi xuất hiện lá cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau, như ánh hào quang chiếu rọi, hun đúc tinh thần yêu nước của quân dân Cà Mau...

Quốc khánh trong ký ức Mẹ Việt Nam anh hùng

80 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về ngày 2/9/1945 vẫn rực sáng trong lòng dân tộc. Giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh cất cao lời Tuyên ngôn độc lập đã khiến hàng triệu trái tim Việt Nam vỡ oà, từ thân phận nô lệ trở thành người tự do. Với các Mẹ Việt Nam anh hùng (VNAH) ở Cà Mau, ký ức về ngày Quốc khánh đầu tiên ấy mãi là niềm tự hào thiêng liêng, theo suốt cả cuộc đời.

Lê Khắc Xương - Nhà lãnh đạo kiên trung

Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, cách Hà Nội hàng ngàn cây số, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau) đã giành chính quyền chỉ sau Thủ đô Hà Nội 4 ngày. Ðằng sau thắng lợi ấy có vai trò quyết định của đồng chí Lê Khắc Xương, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh khu vực Bạc Liêu - nhà lãnh đạo kiên trung, người đảng viên mẫu mực.

Nghĩ về ba bản tuyên ngôn

Quá trình phát triển, hình thành Nhà nước, lịch sử nhân loại ghi nhận không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Cho đến nay, thế giới ghi nhận có tổng số 195 quốc gia, trong đó chỉ có 75 quốc gia có bản tuyên ngôn độc lập; vậy mà Việt Nam có tới 3 lần ra tuyên ngôn độc lập: "Nam quốc sơn hà" (1077), "Bình Ngô đại cáo" (1428) và Tuyên ngôn Ðộc lập (1945).

Niềm tin và khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua 30 năm bôn ba nước ngoài, sống và hoạt động cách mạng tại 28 quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với niềm tin và khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đó chính là sự thể hiện rõ ràng nhất tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, khát vọng giải phóng dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Chung mạch nguồn, nối tiếp hào khí

Nhìn từ chiều sâu, không gian địa lý, văn hoá, lịch sử và cốt cách con người Cà Mau - Bạc Liêu là một. Từ thời khẩn hoang mở đất, những chủ nhân của vùng đất này đã có sự cố kết chặt chẽ, lựa thế “tri hành” để tô điểm, dựng xây, thích ứng hài hoà với tự nhiên để từng bước dựng xây một vùng đất mới trù phú, đằm thắm nghĩa nhân. Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất và người Cà Mau - Bạc Liêu lại bừng cháy ngọn lửa cách mạng, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, viết nên những trang sử vàng hiển hách.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài cuối: Thiêng liêng tình dân tộc, nghĩa đồng bào

Với sự trợ lực của toàn Đảng, toàn dân, hành trình tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ quay về quê hương; trả lại tên cho các anh và sự ghi công của Tổ quốc được thế hệ hôm nay, mai sau tiếp nối thực hiện. Tất cả xuất phát từ tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 3: Công nghệ xét nghiệm ADN – Cánh cửa hy vọng

Sau hơn nửa thế kỷ kể từ khi đất nước thống nhất, hành trình tìm lại danh tính cho các liệt sĩ vẫn chưa dừng lại. Công nghệ xét nghiệm ADN được kỳ vọng là "chìa khoá" mở ra hy vọng trong việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Đất mẹ gọi các anh về - Bài 2: Tìm hài cốt liệt sĩ nơi xứ người

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, hoạt động tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ được Đảng, Nhà nước, Quân đội và thân nhân liệt sĩ được tăng cường, bất kể thời tiết, địa hình trắc trở. Dẫu lắm vất vả, gian truân nhưng là hành trình tri ân về tình đồng đội, nghĩa đồng bào.

Đất mẹ gọi các anh về

LTS: Vào ngày 17/7/2024, Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 356/KH-BCA-C06 về việc triển khai thu nhận mẫu ADN cho thân nhân của liệt sĩ chưa xác nhận được danh tính trên toàn quốc. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà là Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, đã chỉ đạo một cách sát sao đối với công an của các tỉnh, thành phố. Hoạt động ý nghĩa, nhân văn này nhằm đưa hài cốt các anh hùng liệt sĩ về đất mẹ an táng với tên họ và thông tin đầy đủ nhất, thể hiện sự tri ân mà thế hệ hôm nay đối với thế hệ đi trước.