ĐT: 0939.923988
Thứ ba, 12-8-25 12:56:06
Theo dõi Báo điện tử Cà Mau trên

Nông nghiệp Bạc Liêu không ngừng phát triển

Báo Cà Mau

Sau khi đất nước thống nhất, nông nghiệp Bạc Liêu gặp rất nhiều khó khăn. Trước tình hình trên, Đảng bộ và quân dân Bạc Liêu tiếp tục làm một cuộc cách mạng trong sản xuất nông nghiệp, biến những vùng đất trũng, phèn mặn thành những cánh đồng lúa bạt ngàn. Nhất là từ khi tỉnh Bạc Liêu tái lập (năm 1997) đến nay, nền nông nghiệp tỉnh không ngừng phát triển.

Những thành tựu đạt được

Bạc Liêu có diện tích đất tự nhiên 257.094ha với 56km bờ biển và một ngư trường rộng lớn có trữ lượng tôm, cua, cá khá dồi dào. Nhiều cửa sông, kênh rạch thông ra biển, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế biển. Hiện, Bạc Liêu đã hình thành 3 tiểu vùng sinh thái gồm: tiểu vùng giữ ngọt ổn định phía Bắc Quốc lộ (QL) 1A (sinh thái ngọt) với diện tích đất tự nhiên 75.720ha; tiểu vùng chuyển đổi sản xuất phía Bắc QL 1A (sinh thái lợ) với diện tích đất tự nhiên 81.504ha; vùng phía Nam QL 1A (sinh thái mặn) với diện tích đất tự nhiên 99.870ha.

* Nông dân huyện Vĩnh Lợi thu hoạch lúa bằng máy gặt đập liên hợp.

* Mô hình tôm - rừng kết hợp ở huyện Hòa Bình. Ảnh: M.Đ

Trải qua chặng đường 18 năm xây dựng và phát triển, nông nghiệp - nông thôn Bạc Liêu đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Cụ thể, doanh thu bình quân mỗi héc-ta đất nông nghiệp từ 5,42 triệu đồng (năm 1997) tăng lên 168,77 triệu đồng (vào năm 2013). GDP nông - lâm - ngư nghiệp từ hơn 1.125 tỷ đồng (năm 1997) tăng lên hơn 34.978 tỷ đồng (vào năm 2013). Trong 6 tháng đầu năm 2014, GDP nông - lâm - ngư nghiệp đạt hơn 5.990 tỷ đồng.

Ngành Thủy sản tăng nhanh cả về quy mô sản xuất, năng suất, sản lượng. Tổng sản lượng thủy sản năm 2013 đạt 270.885 tấn, tăng 5,42 lần so với năm 1997. Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2013 đạt 127.833ha, tăng 3,03 lần so với năm 1997. Năng suất nuôi trồng thủy sản bình quân 2,41 tạ/ha (năm 1997), tăng lên 12,94 tạ/ha (vào năm 2013).

Riêng 6 tháng đầu năm 2014, tổng sản lượng thủy sản đạt 144.341 tấn. Trong đó, tôm 45.954 tấn, cá và thủy sản khác 98.387 tấn. Sản lượng lúa năm 2013 đạt 1.017.816 tấn, tăng 1,97 lần so với năm 1997. Mức bình quân lương thực đầu người luôn ở mức cao: 714 kg/người (năm 1997) và tăng lên 1.153 kg/người (vào năm 2013). Diện tích cây thực phẩm của tỉnh là 12.186ha và đạt sản lượng rau, đậu 125.000 tấn (năm 2013), tăng 2,58 lần so với năm 1997.

Về chăn nuôi, Bạc Liêu có bước phát triển khá nhanh cả về quy mô đàn, năng suất, sản lượng, chất lượng sản phẩm thịt, trứng. Công tác quản lý, bảo vệ rừng, trồng rừng tập trung, trồng cây phân tán luôn được ngành Nông nghiệp quan tâm chỉ đạo. Hiện, diện tích đất lâm phần là 6.140ha, trong đó, diện tích có rừng trong mô hình tôm - rừng 2.194ha.

Nghề muối Bạc Liêu cũng có sự chuyển biến tích cực. Diêm dân từng bước thay đổi tập quán sản xuất muối đen sang sản xuất muối trắng trải bạt. Bình quân mỗi năm cung cấp cho thị trường 100.000 tấn muối thực phẩm các loại. Các mô hình sản xuất kết hợp như muối - tôm, muối - cá kèo ngày càng được nhân rộng, góp phần nâng cao thu nhập trên cùng đơn vị diện tích.

Nhờ ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất, chế biến nên năng suất, chất lượng nông - lâm - thủy sản và muối đạt chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Nhiều mô hình sản xuất hiệu quả được nông dân áp dụng như mô hình nuôi tôm công nghiệp theo hướng thâm canh và bán thâm canh phát triển bền vững; mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng; nuôi kết hợp tôm - cua, cá - lúa, tôm - cá - lúa, lúa - tôm càng xanh; lúa - màu, lúa - cá, tôm - rừng, muối - tôm; mô hình nuôi tôm sinh thái, nuôi cá kèo công nghiệp; các mô hình VACB, VAC, RVACB... đã góp phần nâng cao thu nhập trên đơn vị sản xuất, cải thiện đời sống nông dân.

Từng bước hoàn thiện hạ tầng nông thôn

Qua 18 năm tái lập tỉnh, được sự đầu tư của Nhà nước và đóng góp của nhân dân, đã tạo nên hệ thống kết cấu hạ tầng thủy lợi khá hoàn chỉnh. Đơn cử là đã xây dựng công trình đê biển dài 52,4km, đê sông dài 397km và bờ bao dài 2.201km; xây 35 cống, đập; 3 công trình kè chống sạt lở bờ biển, bờ sông. Đồng thời thi công 33 kênh trục cấp 1 dài 720km; 304 kênh cấp 2 dài 1.616km; 753 kênh cấp 3 vượt cấp dài 2.736km; 3.141 kênh cấp 3, kênh nội đồng dài 3.402km. Song song đó, xây dựng 18 trạm bơm nước và 189 ô thủy lợi khép kín; đưa vào khai thác vận hành 115 hệ thống cấp nước tập trung.

Đến nay, toàn tỉnh có 3 xã đạt 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới (XDNTM), 6 xã đạt từ 15 - 18 tiêu chí XDNTM, 20 xã đạt từ 10 - 14 tiêu chí XDNTM và 21 xã đạt từ 5 - 9 tiêu chí XDNTM. Các chỉ tiêu về đời sống người dân nông thôn được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ hộ nông thôn được sử dụng nước sạch an toàn đạt 54%, tăng 34%; tỷ lệ hộ gia đình sử dụng hố xí hợp vệ sinh đạt 43%, tăng 23,46%; tỷ lệ hộ gia đình có chuồng trại chăn nuôi gia súc hợp vệ sinh đạt 43%, tăng 16%; tỷ lệ hộ nông thôn được dùng điện đạt trên 94%, tăng 54%. Toàn tỉnh cơ bản hoàn thành việc xây dựng giao thông nông thôn ấp liền ấp.

Tuy nhiên, những thành tựu đạt được hiện vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Nông nghiệp - nông dân và nông thôn Bạc Liêu đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cần được quan tâm giải quyết trong thời gian tới. Bởi, nông nghiệp phát triển còn ở trình độ thấp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ thiếu bền vững. Điều kiện sống, thu nhập và mức sống của đa số nông dân còn thua kém xa so với thành thị.

Ngành Nông nghiệp tỉnh đang tái cơ cấu nông nghiệp đến năm 2020 theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Đồng thời, đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Tỉnh xác định cần đột phá đối với những sản phẩm chủ lực như: tôm sú, tôm thẻ, cua biển, lúa gạo chất lượng cao, măng tây, ngò rí, muối... để thực hiện tái cơ cấu ngành và kêu gọi các doanh nghiệp tham gia đầu tư, hợp tác, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm. Hoàn thiện mô hình cánh đồng mẫu lớn để trở thành các mô hình cánh đồng lớn và triển khai nhân rộng.

Ngành Nông nghiệp tỉnh cũng đã thực hiện quy hoạch phát triển sản xuất nông - lâm - diêm nghiệp và thủy sản đến năm 2020. Trong đó, chuẩn bị trình phê duyệt quy hoạch thủy lợi; đang triển khai lập quy hoạch tổng thể sử dụng đất lúa; quy hoạch phát triển chăn nuôi gắn với hệ thống lò giết mổ tập trung; quy hoạch bảo tồn, phát triển rừng đặc dụng Vườn chim Bạc Liêu và khu rừng Canh Điền (huyện Đông Hải); đề án xã XDNTM… Song song đó, tiến hành xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh lúa gạo, nuôi trồng thủy sản quy mô lớn. Từng bước kết nối sản xuất nông nghiệp với công nghiệp chế biến, bảo quản và xuất khẩu, tiêu thụ sản phẩm với các sản phẩm có lợi thế và khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Theo ông Lương Ngọc Lân, Giám đốc Sở NN&PTNT: “Tái cơ cấu nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả nông sản; nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản, thực phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Song song đó, làm tăng thu nhập và cải thiện đời sống nông dân, góp phần xóa đói giảm nghèo; đẩy nhanh tiến độ, lộ trình XDNTM”.

Minh Đạt

Phong Hiệp vươn lên với nhiều mô hình kinh tế hiệu quả

Trong quá trình xây dựng nông thôn mới, ở xã Phong Hiệp xuất hiện nhiều mô hình sản xuất hiệu quả, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người dân. Nổi bật là các mô hình chăn nuôi và chế biến thuỷ sản, thể hiện tinh thần vượt khó, dám nghĩ, dám làm của nông dân và phụ nữ địa phương.

Khảo sát các mô hình kinh tế hiệu quả tại xã U Minh

Sáng 6/8, Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch HĐND xã Lê Hồng Thịnh dẫn đầu đoàn công tác có chuyến tham quan, khảo sát các mô hình kinh tế hiệu quả trên địa bàn xã U Minh.

Quảng bá hình ảnh đất và người Cà Mau

Sau thời gian thực hiện Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) không chỉ làm phong phú thêm hàng hoá mang thương hiệu địa phương mà còn tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người dân nông thôn. Đặc biệt, khi sản phẩm được chứng nhận đạt chuẩn OCOP, cơ hội nâng cao giá trị và mở rộng thị trường được mở ra rõ rệt.

Từ nghề bán vé số đến trại nấm bạc triệu

Trước đây, gia đình anh Nguyễn Văn Phát, ấp Hoà Tiền, xã Phước Long, chủ yếu sống bằng nghề bán vé số, thu nhập bấp bênh. Song, từ khi được Hội Phụ nữ địa phương giới thiệu, hỗ trợ tiếp cận Chương trình sinh kế của Hợp tác xã (HTX) Nấm sạch Hoà Tiền. Anh đã mạnh dạn thử nghiệm mô hình trồng nấm bào ngư xám và nhanh chóng đem lại hiệu quả rõ rệt, thu nhập ổn định, cuộc sống khấm khá hơn.

Nguyễn Việt Khái - Phủ xanh đất mặn, phát triển thủy sản bền vững 

Được hợp nhất từ 3 xã: Tân Hưng Tây, Việt Thắng và Rạch Chèo (huyện Phú Tân cũ), xã Nguyễn Việt Khái không chỉ mở rộng địa giới hành chính mà còn tạo cú hích mạnh mẽ cho kinh tế địa phương, nổi bật ở hai lĩnh vực: nông nghiệp thích ứng trên đất mặn và nuôi trồng thủy sản bền vững.

“Địa chỉ xanh” chuyên canh hoa màu

Từ sáng sớm, không khí tại Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp và tưới tiêu Quyết Tiến (HTX Quyết Tiến, ấp Mỹ I, xã Phước Long) rộn ràng như phiên chợ nhỏ. Người thu hoạch, người phân loại, người bốc xếp bắp, mướp hương lên xe để kịp chuyển hàng đến các chợ đầu mối ở TP Hồ Chí Minh. Mỗi người một tay, nhịp nhàng và hối hả, như chính nhịp thở đầy sức sống của vùng chuyên canh hoa màu đang vươn mình mạnh mẽ.

“Mái ấm” của những hộ nghèo sống ven biển

Vùng bãi bồi ven biển Vĩnh Thịnh (xã Vĩnh Hậu) là nơi mưu sinh của hàng trăm hộ nghèo, đặc biệt là hộ đồng bào dân tộc Khmer. Hợp tác xã nghêu Đồng Tiến (HTX Đồng Tiến), xã Vĩnh Hậu, ra đời đã trở thành điểm tựa vững vàng cho các hộ có hoàn cảnh khó khăn sống ven biển. Những năm qua, HTX không chỉ là nơi tạo việc làm mà còn là “mái ấm” giúp người dân có cuộc sống ổn định, vươn lên thoát nghèo bền vững.

Nỗ lực hồi sinh rừng phòng hộ ven biển, thích ứng biến đổi khí hậu

Trong 2 ngày (29-30/7), Ban Quản lý rừng đặc dụng và Rừng phòng hộ ven biển (thuộc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Cà Mau) phối hợp với Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế tổ chức khảo sát, đánh giá thực trạng trồng và phục hồi rừng phòng hộ ven biển tại xã Vĩnh Hậu, tỉnh Cà Mau. Đồng thời, tập huấn “Nâng cao năng lực cộng đồng về nuôi trồng thủy sản bền vững và thích ứng biến đổi khí hậu” cho người dân địa phương.

"Vị ngọt" từ sự đổi thay

Hơn 15 năm trước, xã Trí Phải (khi ấy gọi là xã Trí Lực) được người dân miền Tây gọi là “vựa mía”. Những cánh đồng mía xanh ngút ngàn từng là “cần câu cơm” của hàng trăm hộ dân nơi đây. Thuở ấy, Trí Phải mang vị ngọt nồng nàn của mía, mang sắc xanh của liếp rẫy và mang cả những hy vọng bền bỉ của người nông dân.

Hái “lộc trời” mùa nước lên

Tháng 7 là thời điểm mưa nhiều, ở miệt U Minh Hạ, tại các xã như: Nguyễn Phích, Khánh An, Khánh Lâm, Đá Bạc, Khánh Bình, Khánh Hưng... nước đã ngập sâu. Trên những đồng nước mênh mông ấy xuất hiện thứ “lộc trời” ban, là các loài thực vật mọc sâu dưới nước: rau mác, hẹ nước, rau chốc, bông súng ma, sen, bồn bồn, năn…